Công tác kiểm tra, kiểm soát là một nhiệm vụ quan trọng, gắn liền với hoạt động lãnh đạo của Đảng, với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng không chỉ phải thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn phải đồng thời làm tốt công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh, khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”[1].
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm kè bảo vệ sông Đà ở Cổ Đô, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (8/7/1958)
1. Lãnh đạo đúng tất yếu phải có kiểm tra và giám sát/kiểm soát
Trong hoạt động của Đảng cầm quyền, lãnh đạo và kiểm tra, giám sát/kiểm soát có mối quan hệ biện chứng, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau. Trong đó, kiểm tra được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng quyết định tính đúng đắn và đem lại hiệu lực, hiệu quả trong công tác lãnh đạo của Đảng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thì: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1. Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng… 2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng… 3. Phải tổ chức sự kiểm soát”[2] và muốn làm được như vậy thì phải “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng”[3]. Kiểm tra và giám sát/kiểm soát không chỉ là yếu tố cơ bản để người lãnh đạo, cấp ủy, cơ quan lãnh đạo bám sát thực tiễn hoạt động của cơ sở mà còn thông qua đó, giúp cho người lãnh đạo, cấp ủy, cơ quan lãnh đạo có thông tin xác thực được kiểm nghiệm từ thực tiễn, để kịp thời ban hành, điều chỉnh các quyết định một cách linh hoạt, hợp lý, phù hợp với định hướng quản lý, lãnh đạo để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.
Trong đó, kiểm tra là việc các tổ chức đảng kiểm tra việc chấp hành và thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, giữ gìn kỷ luật trong Đảng; xem xét, phát hiện những hạn chế, bất cập, thiếu sót trên mọi phương diện trong quá trình tổ chức thực hiện và đánh giá, kết luận về những ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm… của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và của đảng viên trên tinh thần thấm nhuần lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”[4].
Hơn nữa, thực tế cho thấy “chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”, cho nên cách thức tiến hành kiểm tra theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “1. Kiểm tra phải có hệ thống nghĩa là khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy… 2. Kiểm tra không nên chỉ bằng cứ vào các tờ báo cáo, mà phải đi đến tận nơi. 3. Kiểm tra phải dùng cách thức thật thà tự phê bình và phê bình, để tỏ rõ hết mọi khuyết điểm và tìm cách sửa chữa những khuyết điểm ấy. Như thế, thì cán bộ càng thêm trọng kỷ luật và lòng phụ trách”[5]. Không chỉ có vậy, muốn kiểm tra đạt hiệu quả, theo Người, “người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra, mới đủ kinh nghiệm và oai tín”; đồng thời, “cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm và giàu năng lực giúp mình đi kiểm tra” trên tinh thần “ai đi kiểm tra việc gì, nơi nào có sơ suất gì thì người ấy phải chịu trách nhiệm”[6]. Quán triệt nguyên tắc cách thức kiểm tra đúng, sử dụng cán bộ làm công tác kiểm tra đủ tiêu chuẩn và tiến hành kiểm tra cẩn trọng, chu đáo, theo đúng lộ trình thì tất yếu sẽ giúp cho các cá nhân, tổ chức kịp thời thấy rõ được những khuyết điểm, những khó khăn; đồng thời, tìm cách giúp đỡ để cá nhân, tổ chức vượt qua được mọi sự khó khăn và sửa đổi các khuyết điểm.
Còn giám sát/kiểm soát là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động để kịp thời chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn biết các nghị quyết, chỉ thị có được thi hành không, thi hành có đúng, có nghiêm không; muốn chống các bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, sự lãng phí và các biểu hiện tiêu cực; muốn biết tổ chức đảng và cá nhân “ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát“. Người cũng chỉ rõ, muốn giám sát/kiểm soát đúng, hiệu quả thì công việc này phải được thực hiện “có hệ thống, phải thường làm”; phải được thực hiện theo hai cách, “một cách là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình” và “một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”; đồng thời, người thực thi nhiệm vụ quan trọng này phải “là những người rất có uy tín”.
Cách thức để giám sát/kiểm soát đúng theo nguyên tắc tập trung dân chủ chính là các đảng viên thực hiện trách nhiệm “nghe những người lãnh đạo báo cáo công việc”, “phê bình những khuyết điểm”, “cử hoặc không cử đồng chí nọ hoặc đồng chí kia vào cơ quan lãnh đạo”[7]; là quần chúng kiểm soát những người lãnh đạo bằng cách “phê bình và bày tỏ ý kiến, bầu cử các ủy ban, các hội đồng,v.v.”. Việc giám sát/kiểm soát theo tư tưởng Hồ Chí Minh được triển khai chất lượng và hiệu quả không chỉ góp phần “biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu”, “biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan” mà còn giúp cấp ủy, tổ chức đảng “biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết” và nhất là khi “kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”[8]…
Cũng theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát đều phải dựa vào nhân dân. Lý do phải dựa vào dân chúng và cần phải có dân chúng tham gia là vì, “những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy, sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại”[9]. Hơn nữa, không chỉ kiểm tra mà phải giám sát/kiểm soát cũng đều phải được tiến hành tận nơi, sát người, sát việc, không được/không nên chỉ thuần túy dựa vào hệ thống báo cáo mà phải phải kết hợp cả phương pháp trực tiếp và gián tiếp để bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Muốn có kết quả xác thực, khách quan để đưa ra những quyết định và các biện pháp xử lý đúng tính chất của từng vụ, từng việc thì người/tổ chức thực thi nhiệm vụ này phải đi đến tận nơi, tận chỗ nắm thông tin, tình hình để thẩm tra, xác minh, phân tích và đánh giá, kết luận vụ/việc một cách công bằng, chính xác. Đặc biệt, để hoàn thành nhiệm vụ được giao thì chủ thể kiểm tra – “Các ủy ban và cán bộ kiểm tra phải học tập và thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, phải luôn luôn chú ý nâng cao khả năng chuyên môn, phải cố gắng công tác, phải trau dồi đạo đức cách mạng. Đặc biệt là phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng. Phải chí công vô tư, không thiên vị, không thành kiến”[10].
Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát, phải chú trọng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trên tinh thần đoàn kết, “thương yêu đồng chí lẫn nhau” để vừa giáo dục, thuyết phục, uốn nắn đảng viên, cán bộ vừa định hướng công tác lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; đồng thời phát huy được dân chủ. Thực tế, bên cạnh sự tự giác của con người, thì việc kiểm tra và giám sát/kiểm soát đúng và trúng sẽ “có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Kiểm tra là hoạt động tất yếu và có vai trò quan trọng trong công tác lãnh đạo. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”[11]. Việc chú trọng và thường xuyên kiểm tra và giám sát/kiểm soát giúp cho mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ giữ vững được định hướng chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng mà còn thiết thực góp phần cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; không chỉ góp phần quan trọng vào việc thực hiện đúng, bảo vệ nghiêm chủ trương, đường lối, các nguyên tắc và kỷ luật của Đảng mà còn góp phần tăng cường đoàn kết, thống nhất nội bộ, xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.
2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
Xuyên suốt hơn 92 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát đều được triển khai và điều chỉnh phù hợp về chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy, tổ chức đảng trên tinh thần coi nhiệm vụ quan trọng này là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp đã bám sát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy chế làm việc, phương hướng, nhiệm vụ của từng nhiệm kỳ Đại hội Đảng để tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện một cách toàn diện. Đồng thời, gắn việc kiểm tra thường xuyên, định kỳ theo kế hoạch với kiểm tra đột xuất các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật Đảng, có đơn thư khiếu nại…để góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đúng như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”[12].
Thực tế cho thấy, thông qua kiểm tra, giám sát/kiểm soát, nhận thức của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên về công tác này có sự chuyển biến rõ nét, thể hiện qua việc chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức lực lượng kiểm tra, giám sát/kiểm soát có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn phức tạp; vào những nơi tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật, nội bộ mất đoàn kết… Đồng thời, việc xử lý những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như: xa rời lý tưởng cách mạng, quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng và có các các hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành nhiệm vụ được giao được thực hiện nghiêm (kể cả cán bộ lãnh đạo cấp cao; cán bộ đang đương chức và đã nghỉ hưu) không chỉ có tác dụng giáo dục, răn đe mà còn được nhân dân đồng tình, ủng hộ, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ…
Tuy nhiên, trên thực tế thì công tác kiểm tra và việc giám sát/kiểm soát ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị còn hình thức, còn “bị động và nặng về về giải quyết những vụ vi phạm kỷ luật trước mắt, chưa chủ động về việc giải quyết toàn diện vấn đề giữ gìn kỷ luật và chấp hành Điều lệ của Đảng”[13]. Cùng với đó, việc xử lý kỷ luật, xét thư khiếu nại còn chậm; thậm chí có cấp ủy, tổ chức đảng coi công tác kiểm tra là “vạch lá tìm sâu”, làm giảm thành tích của địa phương, đơn vị mình nên làm chiếu lệ… Trong khi đó, những hệ lụy từ toàn cầu hóa, từ kinh tế thị trường vẫn hằng ngày hằng giờ tác động vào đời sống, khiến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao sa vào bẫy đường của chủ nghĩa cá nhân, mù quáng vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật…
Vì thế, để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiền phong, luôn “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với niềm tin yêu và sự kỳ vọng của nhân dân; để nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát nói riêng, thời gian tới, một mặt cần thấm nhuần sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ quan trọng này; mặt khác phải tập trung thực hiện một số giải pháp căn cốt sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát gắn liền với việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong toàn Đảng và hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân về tầm quan trọng của công tác này, của việc thi hành kỷ luật Đảng để “tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng” như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ. Thông qua đó, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức được sâu sắc hơn về vai trò quan trọng của công tác này và của từng cá nhân, góp phần làm tốt, làm hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát trong cả hệ thống chính trị để ngăn chặn từ xa, từ đầu và giải quyết từ sớm, không để các vi phạm nhỏ tích tụ thành các vi phạm lớn, không để một cành cây mục nát làm hỏng cả một rừng cây xanh tốt.
Hai là, không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trên tinh thần kiểm tra tập trung, giám sát/kiểm soát mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, kỷ luật đảng. Nội dung kiểm tra, giám sát/kiểm soát gắn liền với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; gắn với Kết luận số 21-KL/TW về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Quy định số 37-QĐ/TW về “Những điều đảng viên không được làm”, các Quy định về nêu gương và Kết luận số 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh“…
Ba là, thực hiện nền nếp chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát/kiểm soát hằng năm, định kỳ, theo chuyên đề; trong đó, phối hợp kiểm tra, giám sát/kiểm soát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng bảo đảm chặt chẽ, công minh, chính xác, thấu tình, đạt lý, đúng quy trình và thẩm quyền. Gắn và kết hợp kiểm tra, giám sát/kiểm soát thường xuyên với kiểm tra, giám sát/kiểm soát theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất và kiểm tra dấu hiệu vi phạm; đồng thời, coi trọng sự tự kiểm tra, giám sát/kiểm soát của các cấp ủy, các tổ chức đảng; tăng cường kiểm tra, giám sát/ kiểm soát của cấp trên đối với cấp dưới. Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra, đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp bảo đảm tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao (đủ số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp). Đồng thời, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy định, quy trình về công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát và kỷ luật Đảng gắn với việc ban hành mới các văn bản quy định, quy chế, quy trình, hướng dẫn về công tác này đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ theo đúng Điều lệ Đảng và hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
Bốn là, ủy ban kiểm tra các cấp và đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ kiểm tra, giám sát/kiểm soát không những phải trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức; phải nắm vững quy chế, quy trình, chức năng, nội dung, nhiệm vụ của mình, của người đứng đầu cấp ủy mà còn phải xác định rõ đây là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên, lâu dài của các tổ chức đảng, trước hết là các cấp ủy Đảng và người đứng đầu. Đồng thời, để đảm bảo cho công tác kiểm tra, giám sát phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Đảng hiện nay, cùng với việc nâng cao dự báo về những hành vi vi phạm của tổ chức đảng và cá nhân để kịp thời đề ra chủ truong, biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm từ xa, từ sớm là việc các cấp ủy cần chú trọng yếu tố con người. Theo đó, lựa chọn, bồi dưỡng, đề bạt và luân chuyển cán bộ làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát/kiểm soát có bản lĩnh chính trị “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”, có năng lực chuyên môn nghiệp vụ tốt, có phẩm chất đạo đức “đủ oai tín”, phương pháp công tác thân dân, “chí công vô tư” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn.
Năm là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong thực hiện kiểm tra, giám sát/kiểm soát; “tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng với giám sát của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội để phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực”[14]. Đồng thời, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát trên tinh thần cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên phải hướng về cơ sở, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và ý kiến góp ý, phê bình của nhân dân theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thông qua đó, giúp tổ chức đảng tại địa phương, cơ quan, đơn vị và nơi cán bộ, đảng viên sinh sống phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân để kịp thời giáo dục, uốn nắn, sửa chữa nhằm “trị bệnh cứu người”, góp phần xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 636
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 325
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 326
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 636
[5]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 637
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 637
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 328
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.327
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.325-326
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.363-364
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.362
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sư thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 197-198
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.363
[14]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sư thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr.247