Phòng và chống các biểu hiện tiêu cực theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về lối sống cần, kiệm, liêm, chính. (Ảnh tư liệu)

 Những biểu hiện tiêu cực chính là những hành vi trái với chủ trương, đường lối, quy định, kỷ luật, Điều lệ của Đảng; trái với chính sách, pháp luật, quy chế của Nhà nước, các tổ chức hội, đoàn thể và nhất là trái với các chuẩn mực, phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Vì vậy, phòng và chống các biểu hiện tiêu cực là thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với vai trò tiền phong.

1. Những biểu hiện tiêu cực được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo từ sớm

Tiêu cực là để chỉ những hiện tượng không lành mạnh, có tác dụng phủ định, cản trở, không tốt đối với quá trình phát triển của xã hội; trái với tích cực[1]. Tiêu cực thường hay được sử dụng dưới dạng: hiện tượng tiêu cực, không lành mạnh; nảy sinh tiêu cực; đấu tranh chống tiêu cực… Soi chiếu theo nghĩa của khái niệm này, có thể thấy tiêu cực chính là một số biểu hiện/hiện tượng/căn bệnh có nguồn gốc sâu sa từ chủ nghĩa cá nhân, là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân.

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập không lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại các cơ quan công quyền. Theo Người, đó chính là những biểu hiện xấu, thể hiện trong quá trình công tác và ứng xử đời thường, cho thấy sự suy thoái về đạo đức, lối sống mà một bộ phận cán bộ, đảng viên đã mắc phải, như: Óc bè phái. Ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe. Đó là một khuyết điểm rất có hại. Nó làm cho đoàn thể mất cán bộ, kém nhất trí, thường hỏng việc. Đó là một chứng bệnh rất nguy hiểm”[2]; Óc hẹp hòi – Ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình. Ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng”[3]; Óc quân phiệt quan liêu. Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe. đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới thì cậy quyền, lấn áp”[4]; “Ích kỷ, hủ hóa… Có những đồng chí còn giữ thói “một người làm quan cả họ được nhờ”, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay không mặc kệ. Hỏng việc đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”[5].

Đó còn là những biểu hiện thể hiện rõ tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, như: “Bệnh tị nạnh. Cái gì cũng muốn “bình đẳng”… Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ “bình đẳng”[6]; “Bệnh kiêu ngạo – Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tăng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng làm thầy người khác”[7]; “Bệnh hiếu danh – Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay… Chỉ ham làm chủ tịch này, uỷ viên nọ, chứ không ham công tác thiết thực”[8]; “Bệnh cận thị– Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ…chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn”[9]; “Bệnh cá nhân…Không theo nguyên tắc sinh hoạt của Đảng…Không phục tùng mệnh lệnh, không tuân theo kỷ luật. Cứ làm theo ý mình… Thậm chí nghe những lời phản cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ”; “Bệnh tham lam– Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình… Sinh hoạt xa hoa, tiêu sài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu”[10]

Đi cùng với đó chính là: “Bệnh xu nịnh, a dua– Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”[11]; “Kéo bè kéo cánh lại là bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”[12]

Có thể thấy, những cán bộ, đảng viên mang trong mình những biểu hiện tiêu cực/những tật bệnh này chính là những người suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, “hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể”[13]. Họ luôn ỷ thế vào quyền lực/quyền hạn/trách nhiệm được trao tại các cơ quan công quyền để lợi dụng/lạm dụng quyền lực mưu cầu lợi ích cho mình/nhóm mình/dòng họ/địa phương mình mà không màng đến lợi ích của Đảng, và của nhân dân. Họ vì mục đích cá nhân mà suy nghĩ, hành động vụ lợi, dẫn đến vi phạm các nguyên tắc, kỷ luật của Đảng và sai phạm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành.

Không chỉ có vậy, cùng với thời gian, những biểu hiện tiêu cực trong tư tưởng, lập trường, quan điểm, thể hiện rõ sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra như: “Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ đòi ưu đãi, họ đòi danh dự và địa vị. họ đòi hưởng thụ. Nếu không thỏa mãn yêu cầu của họ thì họ oán trách Đảng, họ cho rằng “họ không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”. Rồi dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”[14]; “Họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh… Họ không lắng nghe ý kiến quần chúng. Họ xem kinh cán bộ ngoài Đảng…Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, họ rời xa quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng…Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh”[15].

Đặc biệt, đó còn là những người chỉ “học sách vở Mác- Lênin, nhưng không học tinh thần Mác- Lênin. Học để trang sức chứ không phải để vận dụng vào công việc cách mạng”[16]; “chứng kém lý luận trong bệnh chủ quan…Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm… Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận“, v.v.. Là những người hoặc có trong mình tư tưởng công thần, hoặc bất mãn thời cuộc và bản lĩnh chính trị kém, nên đã dễ sa vào bẫy “tự do, dân chủ tư sản”, nên đã dần dần xa rời lý tưởng cách mạng, thậm chí phản bội lại con đường cách mạng đã lựa chọn.

Có thể nói, những biểu hiện tiêu cực/sự suy thoái mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra đều là “con đẻ” của chủ nghĩa cá nhân; không chỉ phản ánh sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt của người cán bộ, đảng viên mà còn chính là là kẻ thù của cách mạng. Những cán bộ, đảng viên có suy nghĩ, có những biểu hiện tiêu cực này không chỉ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, độc đoán, chuyên quyền, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật mà còn không lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, rời xa quần chúng, coi thường công tác dân vận và đã làm trái ngược nguyên tắc phải gắn bó mật thiết với nhân dân… Chừng nào những biểu hiện tiêu cực này còn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi, thì chừng đó nó sẽ thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi người cách mạng, ngăn trở quá trình nỗ lực đấu tranh, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc; đồng thời, phá hoại khối đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; làm xói mòn lòng tin của Nhân dân với Đảng và Chính phủ.

2. Tiếp tục phòng, chống tiêu cực và tham nhũng theo Quy định số 32-QĐ/TW để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Những biểu hiện tiêu cực chính là những hành vi trái với chủ trương, đường lối, quy định, kỷ luật, Điều lệ của Đảng; trái với chính sách, pháp luật, quy chế của Nhà nước, các tổ chức hội, đoàn thể và nhất là trái với các chuẩn mực, phẩm chất đạo đức của người cách mạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định. Vì thế, để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không chỉ nêu ra những biểu hiện tiêu cực/suy thoái vốn là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân mà Người còn đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ quan trọng của Đảng, đó là: “Phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Ðảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Ðảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Ðảng phải chặt chẽ”[17].

Cụ thể, để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đường lối của Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người cán bộ, đảng viên, mỗi cấp ủy nói chung, người đứng đầu và mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng phải chú trọng thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng một Đảng Mácxít – Lêninnít chân chính; trong đó, chú trọng chế độ sinh hoạt của chi bộ và kỷ luật của Đảng, tự phê bình và phê bình phải nghiêm minh, kiểm tra và giám sát phải chặt chẽ. Như vậy, phòng và chống các biểu hiện tiêu cực/suy thoái trong mỗi tổ chức Đảng, mỗi cá nhân vừa là công tác giáo dục và tự giáo dục, vừa là đấu tranh và tự đấu tranh, do đó, đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và mỗi cá nhân. Cũng theo lời Người, chỉ có làm được như vậy, mỗi người cán bộ, đảng viên mới tự tu dưỡng, tự cải tạo mình, tự tiến bộ để khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước; khi thắng lợi cũng không kiêu ngạo, tự mãn, để mỗi người thực sự là những người cộng sản gương mẫu, luôn tận tâm, tận lực phấn đấu “vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích của cá nhân mình. Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc”[18].

Những nhiệm kỳ gần đây, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được tăng cường; việc gắn phòng và đấu tranh chống tham nhũng với xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng được đẩy mạnh để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là “lợi dụng quyền hành để hạch sách nhũng nhiễu dân”[19], cho nên, tham nhũng là sản phẩm của sự tha hóa/lạm dụng/lợi dụng quyền lực để mưu lợi cho cá nhân và người thân. Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn khi họ lợi dụng/lạm dụng chức vụ, quyền hạn được trao/được đảm nhiệm nhằm mục đích vụ lợi cho cá nhân, người thân, nhóm lợi ích… Đó là các hành vi: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi… và đó cũng chính là các biểu hiện của sự suy thoái.

Vì tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ/quyền hạn thực hiện; là một loại biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cho nên phòng và đấu tranh chống tham nhũng luôn là một nhiệm vụ quan trọng, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm; được đẩy mạnh trong những nhiệm kỳ gần đây. Cụ thể, những năm qua, việc nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay“, Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh“, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và một số Quy định khác như: Quy định số 47-QĐ/TW về “Những điều đảng viên không được làm“; Quy định 101-QÐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐ/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”… đã được triển khai sâu rộng trong cả hệ thống chính trị.

Đặc biệt, những biểu hiện tiêu cực mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra lúc sinh thời về cơ bản cũng nằm trong số 27 biểu hiện suy thoái mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về đã nêu; trong đó, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chính là biểu hiện rõ nét nhất của sự tiêu cực đang diễn ra trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thuộc hệ thống chính trị.

Thực tiễn chỉ ra rằng, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực đều là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta…Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”[20]; không chỉ làm mất đi sự trong sạch của bộ máy Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, phẩm chất đạo đức và vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức mà còn đồng thời làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Do đó, không phải ngẫu nhiên lần đầu tiên vấn đề phòng, chống tham nhũng lại được rõ ghi tại khoản 2, Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải… kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.

Vì tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực đều là sự suy thoái; đều là “tác nhân” thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi con người, trong nội bộ từng tổ chức, cho nên đó là “kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”[21]. Vì thế, chừng nào mà các biểu hiện tiêu cực/”con đẻ” của chủ nghĩa cá nhân/của “kẻ địch nội xâm” này vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của mỗi người cán bộ, đảng viên; còn xâm nhập vào “cơ thể Đảng/tổ chức Đảng” và làm suy giảm nguồn sức mạnh nội lực, sự đoàn kết thống nhất của Đảng, biến Đảng thành xa lạ, đối lập với nhân dân, thì chừng đó, nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ vẫn còn hiện hữu.

Vì tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực đều là trở lực lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ, đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước; đều làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho nên, để phòng và đấu tranh chống tham nhũng cùng các biểu hiện tiêu cực hiệu quả, thì cuộc đấu tranh đó phải được xác định “quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”[22] như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh. Công cuộc phòng, đấu tranh chống tham nhũng và phòng, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực của cán bộ, đảng viên là hai bộ phận của một nhiệm vụ trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Do đó, phòng và đấu tranh chống tham nhũng, chống các biểu hiện tiêu cực không chỉ cần phải được tiến hành đồng thời, đồng bộ mà còn phải có sự kết hợp, gắn bó chặt chẽ với nhau, để phát huy hiệu quả của từng bộ phận và bảo đảm tính toàn diện của nhiệm vụ quan trọng này. Đây là yêu cầu và nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên, liên tục của mỗi cấp ủy, chính quyền, ban, ngành các cấp trong cả hệ thống chính trị và của mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng.

Để thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống; đồng thời, nhằm  nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, phòng và chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng, ngày 16/9/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã ký ban hành Quy định số 32-QĐ/TW của Bộ Chính trị về “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực”; trong đó, nêu rõ việc gắn công tác phòng, chống tham nhũng đồng bộ với công tác phòng, chống tiêu cực, nhất là chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tiếp đó, ngày 25/10/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về “Những điều đảng viên không được làm” thay thế cho Quy định 47-QĐ/TW ngày 1/11/2011 về “Những điều đảng viên không được làm“.

Gắn đấu tranh phòng, chống tham nhũng với phòng, chống những biểu hiện tiêu cực/sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên chính là hiểu đúng, hiểu sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”[23]; “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân”[24] và “vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”[25]. Đồng thời, thông qua đó, góp phần ngăn chặn từ gốc, phát hiện từ sớm và xử lý ngay từ đầu để ngăn chặn những vi phạm nhỏ, không để chúng tích tụ thành những sai phạm lớn, vụ án lớn; không để những cành cây làm hỏng một thân cây, không để một thân cây bệnh lây lan cả rừng cây.

Vì thế, mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên trong cả hệ thống chính trị đều phải:

Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phải học tập, quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng nói chung, về học tập lý luận chính trị nói riêng (nhất là nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước) trên tinh thần gắn lý luận với thực tiễn, vì “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”[26]. Đồng thời, phải thường xuyên, liên tục phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân/quét sạch chủ nghĩa cá nhân gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” để mỗi người tự soi, tự sửa, tự rèn luyện theo 3 chuẩn mực và nêu gương về đạo đức cách mạng: “Tự mình phải”, “Đối với người phải”, “làm việc phải” (như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong tác phẩm Đường Cách mệnh, năm 1927) theo nguyên tắc “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”; coi đó là việc làm thường xuyên, liên tục, nền nếp, là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên.

Hai là, trong công cuộc phòng, đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực/sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” này, cần phải phát huy vai trò nêu gương trong rèn luyện bản lĩnh chính trị gắn với phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu nói riêng về mọi mặt. Trong đó, chú trọng yêu cầu gương mẫu trong học tập nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý; trong rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác… trên tinh thần thấm nhuần cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước… Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”[27]. Qua đó, góp phần đẩy lùi, ngăn chặn các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng cầm quyền; đồng thời, thiết thực nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng, năng lực và sức chiến đấu của Đảng.

Ba là, cùng với việc các cơ quan chức năng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, chống tham nhũng hiệu quả; cùng với việc bổ sung, thay thế Quy định số 47-QĐ/TW bằng Quy định số 37-QĐ/TW về “Những điều đảng viên không được làm” và sự phối hợp công tác giữa các cơ quan, ban, ngành chức năng để nhận diện rõ hơn, cụ thể hơn các hành vi tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp có liên quan đến tham nhũng của cán bộ, đảng viên (bằng văn bản cụ thể), thì mỗi cấp ủy cũng cần phải chú trọng làm tốt công tác tư tưởng, phát huy dân chủ, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong từng tổ chức cơ sở Đảng để làm hạt nhân cho khối đoàn kết của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị không chỉ cần phải nêu gương và công tâm, khách quan, dân chủ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện để xây dựng tập thể đoàn kết, thống nhất gắn với môi trường công tác lành mạnh, văn hóa mà còn phải phát huy dân chủ đi đôi với giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, giúp mọi người cùng nỗ lực phấn đấu, hết lòng vì công việc chung (thấy đúng kiên trì bảo vệ, thấy sai kiên quyết đấu tranh; cổ vũ, động viên kịp thời cái mới, ngăn chặn và đẩy lùi cái sai, cái xấu…), góp phần phòng, chống, ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ từ sớm, từ gốc./.



[1] Viện Ngôn ngữ học: Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, tr.1254

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.88

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.296

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.88

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.90-91

[6]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.300

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.295

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.295

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.297-298

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.295

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.301

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.297

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.20

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.607

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.607

[16]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.611

[17]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.547

[18]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.602 

[19] Dẫn theo PGS, TS Vũ Công Giao: Quản trị tốt và phòng, chống tham nhũng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.162

[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.357-358

[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.357

[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.358

[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.289

[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.64-65

[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.290-291

[26]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.95

[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.6, tr.16