Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh: T.L
“VĂN HÓA LÀ MỘT THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC”
Năm 1988, khi bàn về văn hóa, Tổng Giám đốc Tổ chức UNESCO Federico Mayor khẳng định rằng: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”(1).
Ngược dòng lịch sử, trước đó 45 năm – năm 1943, trong phần cuối của bản thảo cuốn Nhật ký trong tù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”(2). Với nhận định này, có thể thấy trong quan niệm của Người, văn hóa chính là toàn bộ những sáng tạo vật chất và sáng tạo tinh thần của con người nên “văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”(3); văn hóa là sự sáng tạo của ngôn ngữ, đạo đức, lối sống, giáo dục, khoa học, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật… Vì thế, về bản chất, dù ở nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thì văn hóa chính là sự sáng tạo, phát minh của con người vì mục đích sinh tồn và phát triển. Văn hóa là cơ sở tạo nên đời sống xã hội, là đặc trưng của xã hội loài người; trong đó, con người vừa là chủ thể của văn hóa vừa là sản phẩm của văn hóa..
Từ 2 quan niệm nêu trên, có thể thấy cả Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổ chức UNESCO đều khẳng định vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của tiến trình lịch sử loài người nói chung và sự phát triển kinh tế – xã hội nói riêng; đều cho rằng văn hóa là một hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn. Với ý nghĩa đó, văn hóa chính là linh hồn của một xã hội, là sức mạnh trường tồn của một quốc gia/dân tộc, đồng thời cũng chính là sức sống vươn lên của thời đại. Mỗi quốc gia/dân tộc muốn phát triển ổn định và bền vững tất yếu phải xây dựng, phát triển văn hóa và con người gắn liền với phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội; phải đặt văn hóa trong mối quan hệ chặt chẽ với chính trị, kinh tế, xã hội.
Đồng thời, coi trọng vai trò của nền văn hóa dân tộc trong tiến trình phát triển của đất nước, cũng trong phần cuối của bản thảo cuốn Nhật ký trong tù, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc. 1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính trị: dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế”(4). Có thể thấy, “Năm điểm lớn” này thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa dân tộc Việt Nam, bao gồm tất cả các mặt: tâm lý con người, đạo đức, xã hội, chính trị, kinh tế; chú trọng xây dựng con người Việt Nam với hệ giá trị: có tinh thần độc lập, ý thức tự cường, có đạo đức, biết hy sinh mình vì mọi người. Trong nền văn hóa đó, mọi giá trị và hoạt động đều hướng đến lợi ích của nhân dân; mọi người dân đều được thụ hưởng các quyền chính đáng của con người và mục tiêu làm “lợi cho quần chúng”, “phúc lợi của nhân dân trong xã hội” chính là ý nghĩa và giá trị nhân văn mà nền văn hóa dân tộc mang lại. “Năm điểm lớn” này thể hiện rõ mối quan hệ biện chứng trong xây dựng nền văn hóa của dân tộc; trong đó, con người vừa là chủ thể của xã hội, nhưng cũng vừa là sản phẩm của xã hội và xã hội vừa được xây dựng bởi con người, song cũng vừa là nền tảng để xây dựng con người. Cho nên, chỉ con người có văn hóa mới có thể xây dựng một xã hội có văn hóa và chỉ một xã hội có văn hóa mới tạo được điều kiện để con người văn hóa ra đời, phát triển.
Đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng trong năm 1943, Đề cương về văn hoá Việt Nam của Đảng Cộng sản Đông Dương (Đảng Cộng sản Việt Nam) ra đời đã không chỉ đánh giá đúng vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của dân tộc mà còn khẳng định: “Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: Nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia”(5) và “a) Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá) ở đó người cộng sản phải hoạt động. b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hoá nữa”(6). Đồng thời, Đề cương cũng nêu 3 nguyên tắc vận động xây dựng nền văn hóa Việt Nam, thể hiện tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc – đó là: “a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho vǎn hóa Việt Nam phát triển độc lập); b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); c) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hóa trái khoa học, phản tiến bộ)”(7).
Theo dòng lịch sử, nền văn hóa Việt Nam được hun đúc suốt chiều dài dựng nước và giữ nước đã không chỉ nuôi dưỡng, đắp bồi tinh thần đoàn kết dân tộc, lòng vị tha, cởi mở, tinh thần khoan dung tôn giáo, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, khát vọng độc lập, tự do, tự cường của nhân dân Việt Nam… mà còn khơi dậy và phát huy, nhân nguồn sức mạnh đó trong hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những giá trị văn hóa tinh thần quý giá của dân tộc, của con người Việt Nam – nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – mở đầu một kỷ nguyên mới cho đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam trên hành trình xây dựng và phát triển.
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã chú trọng xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam mới đúng như V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sau khi người ta đã hoàn thành cuộc cách mạng chính trị lớn nhất chưa từng thấy trên thế giới, thì những nhiệm vụ khác lại đặt ra cho chúng ta, những nhiệm vụ về văn hoá” và “nâng cao trình độ văn hoá là một trong những nhiệm vụ bức thiết nhất”(8) mà những người cộng sản phải làm sau khi đã giành được chính quyền. Vì thế, ngày 13/9/1945, chỉ 11 ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nhà nước Việt Nam mới, trong buổi tiếp ông Nguyễn Tường Phượng (Tạp chí Tri Tân), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Có chính trị mới có văn hóa, xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được. Nay nước ta đã độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hóa hòa hợp với khoa học và hợp cả với nguyện vọng của dân”(9). Tiếp đó, phát biểu trong buổi khai mạc phòng triển lãm văn hóa ngày 7/10/1945, Người cũng khẳng định: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”(10).
Đặc biệt, thấu hiểu sâu sắc rằng, để một quốc gia, dân tộc nói chung, Việt Nam nói riêng phát triển bền vững sau hơn 80 năm trời nô lệ, thì văn hóa phải thật sự thấm sâu, gắn kết chặt chẽ với chính trị và kinh tế; để sự gắn kết này là điều kiện quan trọng để giữ/củng cố và xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, thật sự là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nhằm thực hiện mục tiêu cao cả là: “dân quyền”, “lợi cho quần chúng”, “phúc lợi của nhân dân”, trong diễn văn khai mạc Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(11).
VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM – NỀN TẢNG, SỨC MẠNH NỘI SINH QUAN TRỌNG ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Để văn hóa đảm nhận đúng, đủ, tốt trọng trách “phải soi đường cho quốc dân”, theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nền văn hóa dân tộc và con người mới cần được, cần phải được xây dựng và phát triển, phù hợp với thời đại. Lịch sử nhân loại cũng đã cho thấy giá trị của văn hóa đối với mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình phát triển là không thể phủ nhận. Vì thế, trong quá trình kiến thiết và bảo vệ nền cộng hòa dân chủ, dù phải tập trung cho nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ, song Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam) vẫn đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam mới. Theo chỉ dẫn của Người, trước hết “phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với Việt Nam độc lập” bằng cách đẩy mạnh thực hiện công cuộc tiêu diệt “giặc dốt”, nâng cao dân trí để mỗi người dân hiểu được quyền lợi và bổn phận của mình; bằng cách xây dựng nền văn hóa, văn nghệ chân chính phục vụ nhân dân; bằng cách xây dựng đời sống mới, bài trừ các hủ tục lạc hậu; xây dựng con người mới; đồng thời, phải “sửa soạn gây dựng cho đất nước một nền văn hóa mới”(12); trong đó, “văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(13). Tư tưởng của Người không chỉ nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa, ngang với các lĩnh vực trọng yếu khác; cảnh báo, phê phán việc, bệnh coi nhẹ lĩnh vực văn hóa, coi văn hóa như lĩnh vực phụ, ăn theo các lĩnh vực khác, không thấy vai trò nền tảng, vai trò sáng tạo, dẫn dắt, “soi đường” của văn hóa mà còn cho thấy kinh tế, chính trị cũng phải nằm trong văn hóa, chịu sự tác động của văn hóa.
Cụ thể, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nền văn hóa mới của dân tộc có mối liên hệ mật thiết với chính trị, cho nên trong quá trình xây dựng nền cộng hòa dân chủ, thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến vừa kiến quốc, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nền văn hóa của dân tộc đều phải góp phần xác lập giá trị cốt lõi của một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; đều phải hướng đến mục tiêu vì con người – coi con người vừa là chủ thể vừa là trung tâm của sự phát triển… Đặc biệt, nền văn hóa dân tộc mới được xây dựng phải hoàn thành trọng trách “làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ… Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình”(14). Cùng với đó, phải: “Xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”(15). Đây chính là mục tiêu xây dựng nền văn hóa dân tộc và con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đây cũng chính là nhiệm vụ quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa ở Việt Nam.
Bước vào thời kỳ cả nước cùng đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”(16), để văn hóa vừa “soi đường cho quốc dân đi” vừa “phải thiết thực phục vụ nhân dân”. Cụ thể, Người nhấn mạnh yêu cầu phải xây dựng văn hóa dân tộc mà trong đó, “nội dung văn hóa phải có ý nghĩa giáo dục… phải giáo dục thế nào là đời sống mới, thế nào là đạo đức cách mạng…Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất… Tóm lại, để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”(17). Đồng thời, Người cũng chỉ rõ yêu cầu “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Phải đánh bại những tư tưởng công thần, địa vị, danh lợi của chủ nghĩa cá nhân…phát huy tinh thần cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo về của công, chống tham ô, lãng phí”(18). Những con người xã hội chủ nghĩa có tư tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và thiên nhiên; có tác phong xã hội chủ nghĩa và lòng nhân ái, vị tha, độ lượng… chính là chủ thể sáng tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo văn hóa/nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là những người phải luôn trau dồi đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và không ngừng học tập ở nhà trường, trong sách vở và học lẫn nhau để nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật nhằm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa gắn với chính trị, kinh tế và ổn định xã hội cho thấy, vật chất và tinh thần là hai mặt của đời sống xã hội nói chung và đời sống mỗi con người nói riêng. Một quốc gia/dân tộc không thể phát triển ổn định và bền vững nếu chỉ chú trọng tăng trưởng kinh tế mà bỏ quên, thậm chí hy sinh các giá trị văn hóa. Cho nên, trong khi chú trọng phát triển kinh tế để xây dựng nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn chú trọng xây dựng và phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, xây dựng nền văn hóa dân tộc và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc kết thúc thắng lợi, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khoá VI ngày 28/11/1987 đã khẳng định văn hóa “là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa là một động lực mạnh mẽ đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội…góp phần thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”(19).
Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ngày 16/7/1998 đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”. Vì thế, “xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng tại Đại hội XI đã tiếp tục khẳng định yêu cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng và đó là một “nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(20).
Để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” ngày 9/6/2014 đã nêu rõ yêu cầu phải tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên tinh thần vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội… Cùng với đó, phải “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.
Trong bối cảnh đổi mới hội nhập toàn diện, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu quan điểm “phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần”(21); nêu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế… nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”(22); đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(23).
Vậy là, có thể thấy, 75 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng “số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền văn hóa dân tộc Việt Nam và hệ giá trị con người Việt Nam đã được chăm lo xây dựng và phát triển trên tinh thần bồi tụ, tích hợp, phát triển cùng chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; được kế thừa, phát huy giá trị tích cực, tốt đẹp của truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, thời đại. Trước thời cơ, thuận lợi và thách thức do bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, bản sắc, cốt cách, bản lĩnh của chiều sâu văn hóa dân tộc và con người Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện đại, luôn tiếp biến và hoàn thiện nhân cách, luôn làm giàu tri thức, năng động, sáng tạo, đổi mới đã thực sự trở thành nền tảng, nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng đối với sự phát triển bền vững đất nước.
75 năm được chú trọng xây dựng và phát triển, con người Việt Nam có trí tuệ và bản lĩnh, có văn hóa và đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc, được giác ngộ, tổ chức và phát huy đã trở thành động lực của cách mạng; đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo nên nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng với thời gian, các yếu tố văn hóa trong mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc và của cả quốc gia/dân tộc như: chủ nghĩa yêu nước và các giá trị chân- thiện- mỹ; tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, bao dung nhân ái… và sự tự lực, tự cường, ý chí vươn lên khi đối diện cùng khó khăn, thử thách tiếp tục được đắp bồi, được phát huy, khẳng định trong từng giai đoạn lịch sử đã góp phần làm nên những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Tiếp tục để chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trên hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội, cả hệ thống chính trị cùng phải nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong triển khai thực hiện, các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng cần chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị gắn với xây dựng con người và hệ giá trị con người Việt Nam mới; gắn xây dựng văn hoá với xây dựng kinh tế và xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. Đồng thời, chú trọng xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phát triển văn học, nghệ thuật, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc gắn với tăng cường hợp tác quốc tế về văn hoá đồng bộ với sự phát triển nhanh, bền vững của kinh tế – xã hội; phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của điều kiện bên trong và bên ngoài, nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội hài hòa và cân đối. Tiếp tục tăng cường các nguồn lực, phương tiện cho hoạt động văn hoá, bảo đảm phát triển văn hoá đồng bộ với tăng trưởng kinh tế, hình thành nền tảng tinh thần vững chắc cho xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu trong đời sống xã hội; làm cho đạo đức, lối sống và những giá trị của con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa hiển hiện sinh động tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói chung, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu và các tầng lớp nhân dân nói riêng, góp phần đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống./.
—————————–
(1) Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao, Hà Nội, 1992, tr.23.
(2) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.3, tr. 458, 458.
(3) (9) (10) (11) (14) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, H, 1997, tr.11, 10, 11, 11, 320.
(5) (6) (7) (13) (15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2000, t.7, tr. 316, 316, 319, 246, 40.
(8) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1978, t.44, tr 211-212.
(12) Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 1993, t.3, tr.13
(16) (17) (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.12, tr.470, 470-471, 604.
(19) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2000, t.48, tr.479
(20) Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.19
(21) (23) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.110, 115-116.
(22) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.336.
TS. Văn Thị Thanh Mai
TS. Vũ Văn Tuấn
Theo https://www.tuyengiao.vn