Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức Đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng. Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là một trong những kiệt tác bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt; sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền. Trong Đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên bộc lộ khuyết điểm, chất lượng hiệu quả công việc yếu kém làm ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, ảnh hưởng đến công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc. Tháng 03 năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Trung Bộ chỉ ra những yếu kém của cán bộ, đảng viên cần sớm được khắc phục, sửa chữa. Tuy nhiên, trong quá trình theo dõi nhận thấy những sai lầm, khuyết điểm chậm được khắc phục, sửa chữa, thậm chí một số sai lầm khuyết điểm của cán bộ, đảng viên có biểu hiện trầm trọng hơn. Trước yêu cầu, đòi hỏi của cuộc cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” làm tài liệu để giáo dục cán bộ, đảng viên. Nâng cao tính đảng, ra sức thực hành phê bình và tự phê bình; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng kịp thời đòi hỏi cấp thiết của cách mạng đặt ra. Trong đó, quan điểm về sự đoàn kết thống nhất của Đảng, hạt nhân để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đưa cuộc kháng chiến nhanh đến thắng lợi hoàn toàn là một nội dung được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh.
Ảnh tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Khi đề cập đến vị trí, vai trò của đoàn kết thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đoàn kết là tư tưởng chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định đến thành công của cách mạng. Đặc biệt, đối với một Đảng cách mạng chân chính – Đảng cầm quyền, thì sự đoàn kết của Đảng càng có một vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của nhân dân. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn vạch rõ những khuyết điểm, yếu kém trong Đảng, của cán bộ, đảng viên mắc phải và đặt câu hỏi: Khuyết điểm do đâu, vì đâu? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh những khuyết điểm, yếu kém trong Đảng và của cán bộ, đảng viên tập trung chủ yếu vào các chứng bệnh: bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi… Trong các thứ bệnh đó, thì bệnh hẹp hòi là thứ bệnh nguy hiểm nhất; trong thì bệnh này ngăn cản Đảng thống nhất và đoàn kết; ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ, địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoạt từ trong phá ra. Cho nên chúng ta phải kiên quyết tẩy cho sạch cái bệnh nguy hiểm đó, để cho Đảng ta hoàn toàn nhất trí, hoàn toàn đoàn kết.
Chính từ vị trí, vai trò của Đảng trước vận mệnh của dân tộc và đòi hỏi khách quan của công cuộc kháng chiến kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu Đảng ta không tự chỉnh đốn, không kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém của mình thì cách mạng sẽ không thể phát triển lên được, kháng chiến sẽ khó đi đến thành công. Bởi vậy, sự đoàn kết, thống nhất làm nên sức mạnh và là nguồn cội của mọi thành công: Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thôi thì chưa đủ, cách mạng muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập hợp tất cả các lực lượng xây dựng khối đoàn kết thống nhất bền vững.
Để xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, Đảng trước hết phải là một khối đoàn kết thống nhất về tư tưởng và hành động, nhưng muốn đi đến đoàn kết thống nhất, Đảng phải nghiêm khắc kiểm điểm, xem xét lại tất mối quan hệ của Đảng. Tuyệt nhiên, Đảng không được che dấu những khuyết điểm, bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Một đảng mà che dấu khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng; cán bộ, đảng viên phải thật thà tự kiểm điểm, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà, cố gắng tự sửa chữa cho xứng đáng là người đại biểu của dân tộc, phải làm cho xứng đáng lòng tin cậy của Đảng, của nhân dân. Càng phải làm gương cho tất cả quần chúng noi theo.
Khẳng định sự cần thiết phải tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, nội dung, yêu cầu, biện pháp để thực hiện đoàn kết. Trong đó, Người đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh vai trò của tự phê bình và phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh thang thuốc hay nhất, thiết thực nhất là tự phê bình và phê bình. Đây là biện pháp quan trọng để nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính Đảng, tính nguyên tắc cao; mục đích của tự phê bình và phê bình, cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt để đoàn kết và thống nhất nội bộ. Đồng thời phê bình mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng cần thiết như cơm ăn, nước uống và không khí thở hàng ngày không được lơ là, chểnh mảng; phê bình thì phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng không nể nang, không thêm bớt; chống thói nể nang, che giấu trước mặt thì nể, kể lể sau lưng. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý phê bình việc làm, chứ không phê bình người. Đối với những người bị phê bình, thì phải vui lòng nhận thấy để sửa cho đúng, không vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét. Đồng thời, Người cũng chỉ ra rằng cần phải kịp thời ngăn chặn các biểu hiện lợi dụng dân chủ, lợi dụng tự phê bình gây chia rẽ mất đoàn kết nội bộ.
Với thái độ khách quan, khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi sâu phân tích và chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế trong Đảng và của cán bộ, đảng viên còn mắc phải và khẳng định đó không phải là do bản chất của Đảng cách mạng, mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Một là, Đảng ta không từ trên trời sa xuống, nó ở trong xã hội mà ra. Hơn nữa mỗi cán bộ, đảng viên cũng là người, mà là người ai cũng có tính tốt, tính xấu ở trong lòng. Dù văn minh hay dã man, tốt hay xấu, đều có tình. Chúng ta cần làm cho trong mỗi con người phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi. Hai là, vì Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội, không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng. Nhờ sự lý giải khách quan, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên, thuyết phục cán bộ, đảng viên nghiêm túc tự kiểm điểm, tự phê bình coi đó là một việc làm cần thiết như cơm ăn, nước uống và không khí thở hàng ngày không được lơ là chểnh mảng.
Mặt khác, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng cũng chỉ là một lực lượng, một bộ phận của dân tộc. Do đó, chỉ đoàn kết trong Đảng cách mạng cũng không thành công được, mà phải đoàn kết nhân dân cả nước… không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết. Nhưng muốn đoàn kết, tập hợp dân chúng Đảng phải hiểu rõ về quần chúng và có quan điểm đúng đắn về quần chúng. Vì quần chúng là người sáng tạo chân chính của lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng là lực lượng cơ bản, quyết định việc lật đổ, xóa bỏ giai cấp thống trị và chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng trong dân chúng không nhất loạt như nhau, mà có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, lý luận khác nhau, ý kiến cũng khác nhau. Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa, hạng kém. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là coi thường hay hạ thấp vai trò của quần chúng, mà đó là thái độ khách quan trước thực tế xã hội vốn có. Trên cơ sở đó Đảng có phương pháp lãnh đạo, giáo dục vận động quần chúng phù hợp, nhằm phát huy cao nhất khả năng, sức mạnh to lớn của quần chúng tham gia vào sự nghiệp cách mạng.
Vận dụng vấn đề này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải tin tưởng, tuyệt đối vào vai trò, sức mạnh của dân chúng, đặc biệt là tin tưởng vào khả năng sáng tạo to lớn của dân chúng; phải giữ chặt mối liên hệ với quần chúng, phải luôn luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng; việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với quần chúng, giải thích cho quần chúng hiểu rõ và trong mọi công việc cán bộ phải nêu gương trước dân chúng. Đồng thời, chúng ta cũng phải hiểu rõ rằng Đảng lãnh đạo quần chúng, nhưng tuyệt đối không a rua theo đuôi quần chúng.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” ra đời cách đây hơn 70 năm, nhưng đến nay những vấn đề được đề cập trong tác phẩm vần còn nguyên giá trị và có tính giáo dục cao đối với cán bộ, đảng viên của Đảng. Đặc biệt là việc củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải luôn coi đó là vấn đề sống còn, là cơ sở đảm bảo sự vững chắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng Việt Nam.
Từ vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của sự đoàn kết thống nhất của Đảng và những đòi hỏi khách quan từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, sự chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phá vỡ khối đoàn kết toàn dân tộc, cuối cùng làm tan rã Đảng và chế độ chế độ XHCN ở nước ta hiện nay, đặt ra việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất của Đảng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” cần thực hiện tốt một số giải pháp cụ thể sau:
Một là, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với CNXH và con đường đi lên CNXH mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra, làm cơ sở để Đảng ta vận dụng vào điều kiện đặc thù Việt Nam. Bởi lẽ, có nhận thức đúng về lý luận, mới có cơ sở để xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, thực hiện thành công Cương lĩnh và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Để làm được điều đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trau dồi bản lĩnh chính trị, tích cực đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Đặc biệt, phải kiên quyết đấu tranh với mọi suy nghĩ và hành động nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đi ngược với cương lĩnh của Đảng. Chỉ có như vậy, khối đoàn kết thống nhất trong Đảng mới trở lên vững chắc, cơ sở để tồn tại lâu dài và bền vững.
Hai là, giữ vững và thực hiện nghiêm túc, đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ.
Dân chủ rộng rãi là điều kiện quan trọng để có đường lối, nghị quyết đúng, đó là biện pháp căn bản để khắc phục những bất đồng về tư tưởng. Còn tập trung cao sẽ bảo đảm cho dân chủ đúng hướng, đúng mục đích, bảo đảm cho kỷ luật của Đảng được chấp hành một cách triệt để, tạo ra sự thống nhất trong hành động. Vì vậy, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động, tức là tạo ra được sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế phát huy dân chủ gắn liền với đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là kẻ thù của Đảng và của nhân dân, là nguy cơ lớn đe dọa đến sự sống còn của Đảng và của chế độ ta. Đảng chỉ rõ: Tình trạng tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước vì vậy củng cố Đảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng phải gắn liền với kiên trì, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện tự do, vô kỷ luật, đặc quyền, đặc lợi, tư tưởng cục bộ địa vị trong cán bộ, đảng viên. Mặt khác, phát huy dân chủ phải đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức cách mạng, đạo đức công dân, đạo đức nghề nghiệp.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong thực hiện tự phê bình và phê bình tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, tạo đồng thuận xã hội. Đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền đối với việc giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong các tổ chức đảng và các cơ quan, đơn vị là yêu cầu của Đảng, đòi hỏi đúng đắn của quần chúng. Thực tế cho thấy, ở đâu hay nơi nào, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền thực sự gương mẫu trong thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc thì ở đó nội bộ đoàn kết, uy tín của Đảng được nâng lên, mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng gắn bó chặt chẽ, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, nếu người nắm trọng trách lãnh đạo, nhất là ở cấp cao, nếu ý thức, trách nhiệm không cao, thiếu tích cực, tự giác tự phê bình, e ngại, hay lo sợ bị phê bình thì không những gây nguy hại cho mình mà còn tạo những nguy cơ lớn, cản trở khó lường cho Đảng.
Bốn là, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng phải gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Để giữ vững và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự thấm nhuần sâu sắc mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải được nhận thức là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
ThS. Nguyễn Thành Diện, ThS. Vương Đức Thương