Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN
1. Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 5-6-1911 với khát vọng cháy bỏng “tìm đường đi cho dân tộc theo đi”, Người rời bến cảng Nhà Rồng, ra đi tìm đường cứu nước. Những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, làm đủ nghề để kiếm sống, giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ hơn về con người, về giá trị của độc lập, tự do. Tháng 7-1920, sau khi tiếp thụ “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin”, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tỏ con đường đấu tranh giành độc lập tự do thật sự cho dân tộc qua gần 10 năm kiếm tìm (1911-1920). Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản là cơ sở vững chắc để Nguyễn Ái Quốc ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tháng 12-1920. Đây là sự kiện có giá trị lịch sử, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc – con đường cách mạng vô sản.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà Người đã lựa chọn. Cuối năm 1929, đầu năm 1930, trước sự chia rẽ, tranh chấp ảnh hưởng trong quần chúng của các tổ chức cộng sản trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam.
Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với những khảo nghiệm, phân tích thực tế xã hội, chế độ chính trị của nhiều quốc gia lớn, nhỏ, giàu, nghèo ở hầu khắp các châu lục, để tìm ra bản chất của các học thuyết và các cuộc cách mạng trên thế giới, từ đó chắt lọc, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu của dân tộc. Đó cũng là quá trình nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc “kế thừa và nâng tầm những giá trị truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng thế giới mà cốt lõi là chủ nghĩa Mác – Lênin, xây dựng đường lối cứu nước, đưa học thuyết cách mạng vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị chu đáo, toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”(1).
2. Lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa tháng Tám, đoàn kết kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
Trước tình hình phong trào cách mạng ở trong nước dâng cao, tháng giêng năm 1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Tại Khuổi Nậm (Cao Bằng), Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941) xác định cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh. Sau Đại hội đại biểu quốc dân họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và 17- 8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(2).Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chủ động, sáng tạo của các Đảng bộ địa phương, Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo; chấm dứt chế độ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm đô hộ của thực dân, phát xít. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời – Nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông Nam Á và là Nhà nước của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, cả dân tộc phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thách thức: Tài chính khánh kiệt, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Vượt lên những khó khăn đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện sách lược tạm hòa hoãn với Pháp và Tưởng để duy trì hòa bình nhằm củng cố chính quyền cách mạng, tiến hành diệt “giặc đói”, “giặc dốt” và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống “giặc ngoại xâm” của dân tộc. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, toàn thể dân tộc Việt Nam trải qua nhiều hy sinh, gian khổ, nhưng vô cùng anh dũng và tự hào, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của Bác kính yêu đã làm nên một Điện Biên lịch sử – “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Với thắng lợi này, “lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”(3).
Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Từ miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng ngày đêm tập trung sức lực, trí tuệ, chỉ đạo cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Người chú trọng đặc biệt việc tổ chức chi viện cho cách mạng miền Nam với tâm niệm “Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”. Ngày 2/9/1969, khi cả dân tộc theo tiếng gọi của Người quyết đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, thì Người đã ra đi. Biến những đau thương, mất mát ấy thành hành động cách mạng, thành quyết tâm “mỗi người dân là một dũng sĩ diệt Mỹ”; với sự chi viện của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ trên thế giới…, quân và dân ta đã đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giành thắng lợi vang dội trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Khát vọng thống nhất non sông, Nam – Bắc sum họp một nhà của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành hiện thực.
3. Giá trị lý luận, thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, phát triển và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Nét độc đáo, khác biệt của tư tưởng Hồ Chí Minh với nhiều hệ tư tưởng, lý luận trên thế giới, là được hình thành, phát triển trong quá trình đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Ðó là sự đúc rút, tổng kết từ thực tiễn đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng sôi nổi, phong phú của Người; đó là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; là sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Người tiếp thu, vận dụng sáng tạo, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển phù hợp, làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin trở nên sống động với thực tiễn Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào thực tiễn nước ta trên nhiều phương diện, từ lý luận Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, với phương thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từng bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đến những lĩnh vực cụ thể về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và xây dựng Ðảng, đặc biệt là lý luận về xây dựng Ðảng Cộng sản cầm quyền. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của cách mạng Việt Nam. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn, tất yếu của cách mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của thế giới trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về vai trò, sức mạnh to lớn của Nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc hiện nay mang tầm chiến lược, có giá trị khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc, bởi vì luôn đặt lợi ích của Nhân dân, của con người ở vị trí trung tâm và chính nhờ chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ, tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc, của các lực lượng yêu nước trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Ðảng Cộng sản và xây dựng Ðảng trong điều kiện Ðảng cầm quyền có giá trị và ý nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Ðảng hiện nay. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành nhiều công sức và tâm huyết cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, đặc biệt là việc xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; về giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ðể tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng trong giai đoạn mới, Ðảng cần phải thường xuyên tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, chăm lo giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Ðảng, lấy đó làm hạt nhân đoàn kết toàn dân, thực hành dân chủ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện thường xuyên, nghiêm túc việc tự phê bình và phê bình trong Ðảng; quan tâm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm vì nước, vì dân của cán bộ, đảng viên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống chủ nghĩa cơ hội, cá nhân, vị kỷ dưới mọi hình thức,… Phải gắn xây dựng, chỉnh đốn Ðảng với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Ðảng, làm cho Ðảng luôn trong sạch, vững mạnh, thật sự “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với niềm tin yêu và kỳ vọng của Nhân dân.
Những cống hiến vĩ đại về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong quá trình đổi mới, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi chúng ta luôn thành kính và tri ân vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người lãnh tụ đã cống hiến cả cuộc đời cho cách mạng Việt Nam cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
—————–
(1)Lời giới thiệu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia. H. 2018, tr. 16-17.
(2)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, Tập 3, tr.554.
(3)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, Tập 10, tr.12.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh