Những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội*

Khi đã tìm thấy con đường cách mạng và nhận thức được chân lý của thời đại cách mạng nhờ giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, với sự thức tỉnh và cổ vũ của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã dồn tất cả nỗ lực và tinh lực của đời mình để thực hiện đến cùng lý tưởng và mục tiêu cách mạng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình đó, Người vừa học tập và nghiên cứu lý luận, vừa tham gia các phong trào đấu tranh chính trị của công nhân và lao động ở những nơi Người đi qua, đã trực tiếp lăn lộn và trải nghiệm suốt mấy thập kỷ trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân. Bằng con đường lao động, vô sản hóa, Người làm đủ mọi nghề, đi qua nhiều miền đất khác nhau, tham gia các sinh hoạt của công nhân, thợ thuyền, ở ngay sào huyệt của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân, Người có điều kiện quan sát trực tiếp tình cảnh sống của những người lao động dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo của tư bản ở chính quốc đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.

Thực tiễn này đã giúp Người nhận rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản và thực dân, cũng như hình thành ở Người tình hữu ái giai cấp đối với những người cùng khổ. Cũng chính thực tiễn này đã cung cấp cho Người những căn cứ để xác minh một sự thật mà Người đã từng hoài nghi về “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” do giai cấp tư sản đưa ra. Người muốn hiểu rõ đằng sau những lời đẹp đẽ trong châm ngôn tư sản ấy, thực chất của nó là cái gì? Mười năm đầu trong cuộc đi tìm chân lý tại chính quê hương của chủ nghĩa tư bản đã đem lại cho Người những thu hoạch lớn, những kết luận chính trị quan trọng, tác động sâu sắc đến tư tưởng, quan điểm, đường lối của Người. Đó là, ở đâu đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính; ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, chủ động đấu tranh, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Trong quá trình tìm đường cứu nước cứu dân và định hình đường lối chính trị giải phóng, giành độc lập dân tộc, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh không chỉ hoạt động ở châu Âu, ở các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa, mà Người còn hoạt động ở phương Đông, châu Á, tìm hiểu thực tiễn các phong trào đấu tranh ở Trung Quốc và Thái Lan. Những cứ liệu từ thực tiễn đó giúp cho Người so sánh, phân tích, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong các kết cấu kinh tế – xã hội, các mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ở những khu vực địa chính trị tiêu biểu, nơi diễn ra những phân hóa và mâu thuẫn giai cấp, dân tộc rất khác nhau giữa phương Tây và phương Đông, giữa các nước tư bản châu Âu với các nước châu Á đang còn tồn tại rất nhiều tàn tích phong kiến và đang là đối tượng khai thác, nô dịch của chủ nghĩa thực dân.

Mối quan tâm đặc biệt nổi bật của Người là tình hình Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam khi đã mất độc lập chủ quyền và đang bị chủ nghĩa thực dân đè nén, thống trị. Do đó, đối với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu, khảo sát thế giới, khu vực và quốc tế cũng chỉ nhằm hướng tới giải phóng và phát triển dân tộc mình, đặt cách mạng Việt Nam trong phong trào cách mạng thế giới, sao cho phù hợp với trào lưu, xu thế chung của lịch sử thế giới và thời đại.

Bước ngoặt lớn trong sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là khi Người giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Chỉ có cuộc cách mạng này mới giải phóng được giai cấp vô sản, giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách thống trị của đế quốc, thực dân, mới thực hiện được độc lập tự do, hoà bình và hạnh phúc cho các dân tộc.

Sự kiện lịch sử đánh dấu bước ngoặt đó là vào năm 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua, Người đã cùng với những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân Pháp tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước tiến bộ, Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành người chiến sĩ xã hội chủ nghĩa (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.241).

Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến nghiên cứu, khảo sát trực tiếp tại nước Nga Xôviết của Lênin, thấy rõ sự sinh thành chủ nghĩa xã hội, nhất là những cải cách kinh tế với chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin khởi xướng làm hồi sinh nước Nga. Người có điều kiện nghiên cứu sâu hơn chủ nghĩa Lênin cũng như ảnh hưởng rộng lớn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra thời đại mới – quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Những tư tưởng đó đã được Người nghiền ngẫm sâu sắc, đã củng cố và khẳng định niềm tin của Người về cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng đó chỉ có thể là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Như thế, từ 1911 đến 1920 là một thập kỷ Người tìm đường và đã thấy con đường sẽ đi. Từ 1920-1924 và sau đó từ 1925-1927 khi Người viết các tác phẩm lý luận, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam, nhất là Đường Kách mệnh (1927), đó là một giai đoạn lịch sử đặc biệt, hình thành về cơ bản lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Người. Đó cũng là thời gian mà Người chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính dảng cách mạng kiểu mới ở Việt Nam . Tư tưởng và phương pháp cách mạng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện tập trung, cô đọng trong các văn kiện đầu tiên thành lập Đảng, do chính Người trực tiếp soạn thảo: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng, tháng 2-1930.

Các mốc thời gian và sự kiện sau đó phản ánh những hoạt động vô cùng phong phú, kiên định, tích cực sáng tạo, nhưng cũng đầy thử thách đối với Người. Chính thực tiễn lịch sử cách mạng đã là sự thẩm định khách quan, công tâm nhất đối với giá trị, sức sống, ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây thực sự là điểm nổi bật về sức sáng tạo vượt trước của Hồ Chí Minh, về bản lĩnh Hồ Chí Minh. Cho đến khi Người về nước (1941) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì tư tưởng, phương pháp cách mạng đầy sáng tạo của Người mới được khẳng định đầy đủ, nhanh chóng đi vào thực tiễn, đem lại lời giải đúng đắn nhất về lý luận để thúc đẩy cách mạng trong thực tiễn. Đó chính là chân giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Những sáng tạo và cống hiến lịch sử của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện ở những điểm nổi bật sau đây:

Một là, nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Mác – Lênin. Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, Người nhận thấy một trong những ưu điểm đặc sắc nhất của lý luận Mác – Lênin là phép biện chứng. Đó là phép biện chứng của phát triển xã hội, là khoa học và cách mạng của sự phát triển, xóa bỏ trật tự xã hội cũ bất công, tàn bạo và hướng tới xây dựng trật tự xã hội mới, dân chủ, công bằng và nhân đạo, xứng đáng nhất với con người – đó là chủ nghĩa cộng sản. Người cũng đặc biệt đề cao học thuyết cách mạng của Lênin, cả trí tuệ khoa học, tính triệt để cách mạng lẫn đạo đức và nhân cách của người sáng lập ra học thuyết Đảng kiểu mới, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, biến chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết lý luận thành hiện thực xã hội mới, một chế độ xã hội mới.

Người nhận rõ chủ nghĩa Mác – Lênin là biểu hiện và kết tinh tinh hoa trí tuệ và tư tưởng của thời đại, của văn hoá nhân loại. Song, Người cũng đặt ra một vấn đề hết sức nghiêm túc về nhận thức khoa học: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” (Sđd, t.1, tr.465). Người đặt vấn đề về sự cần thiết phải vận dụng quan điểm và phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác để xem xét sự khác nhau cơ bản giữa kết cấu kinh tế và kết cấu giai cấp – xã hội giữa phương Tây với phương Đông. Người cũng nêu rõ, mai đây, khi chủ nghĩa tư bản phương Tây làm thay đổi phương Đông thì đấu tranh giai cấp có trở nên quyết liệt không? và Người khẳng định, đại thể là có, nếu xét gương của Nhật Bản. Người còn giải thích rằng, thật ra là có, vì sự Tây phương hóa ngày càng tăng và tất yếu của phương Đông – nói cách khác, chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó (Sđd, t.1, tr.465). Nếu phân hoá giai cấp đã trở nên rõ rệt và đối kháng giai cấp từ sự phân hóa ấy là sâu sắc và gay gắt ở phương Tây trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì ở phương Đông và Việt Nam lại không hẳn là như vậy. ở đây, nổi bật lên mâu thuẫn dân tộc và xã hội với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân từ bên ngoài xâm lược vào chứ không phải là mâu thuẫn giai cấp. Do đó, nếu giải phóng giai cấp và đấu tranh giai cấp như một đặc trưng nổi bật và là một đòi hỏi bức xúc ở phương Tây tư bản chủ nghĩa, thì ở phương Đông, trong đó có Việt Nam lại nổi lên đặc trưng khác, đó là giải phóng dân tộc, là giải quyết mâu thuẫn dân tộc với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân xâm lược để giành độc lập, xóa bỏ tình trạng thuộc địa và phụ thuộc dưới ách đô hộ, thống trị của thực dân.

Đó là lý do giải thích vì sao Người chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp trong dân tộc để tạo ra sức mạnh giải phóng. Trong khi tin tưởng chắc chắn rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác là đúng đắn không chỉ ở phương Tây mà còn ở phương Đông, Người còn có dự báo đầy mẫn cảm rằng, chủ nghĩa cộng sản dễ áp dụng và cách mạng cộng sản chủ nghĩa dễ thành công hơn chính trong thực tiễn phương Đông, châu á và Việt Nam. Một trong những cơ sở luận chứng cho giả thuyết đó là sức đoàn kết dân tộc, truyền thống cộng đồng đã tỏ ra rất gần gũi với bản chất của chủ nghĩa cộng sản.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh còn nêu ra một luận điểm rất khoa học và sáng tạo, tỏ rõ chính kiến độc lập đầy bản lĩnh của Người. Đó là, muốn áp dụng chủ nghĩa Mác, áp dụng lý thuyết cộng sản của Mác vào phương Đông và Việt Nam thì phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” (Sđd, t.1, tr.465). Người cũng xác định rằng, nhiệm vụ ấy đang đặt ra về mặt lý luận mà những người cộng sản phải đáp ứng.

Những luận điểm nêu trên được Nguyễn Ái Quốc nói rõ vào năm 1924, đủ thấy tư chất và bản lĩnh sáng tạo của người cộng sản trẻ tuổi với sức bay của tư duy và tư tưởng vượt trước thời đại như thế nào. Sau này, Người còn có nhiều luận điểm sáng tạo khác đối với việc nhận thức bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Có thể nêu một vài thí dụ tiêu biểu. Người nhìn nhận chủ nghĩa Mác – Lênin trong dòng chảy của sự tiến hoá tư tưởng, biết thâu thái tất cả những gì tiến bộ, ưu tú, tinh hoa của tư tưởng, văn hóa nhân loại để vừa hiểu rõ sự phong phú của tư tưởng, văn hoá nhân loại, vừa thấy sự phát triển nhảy vọt của những tư tưởng mácxít vốn không tách rời, không ở bên ngoài mà ở trong tổng số và tổng hợp của toàn bộ những giá trị tinh hoa đó. Chẳng thế mà, trong khi tin và đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, Người vẫn rất trân trọng tư tưởng từ bi, bác ái của đạo Phật, khoan dung văn hoá cao cả của chúa Giêsu, tinh thần thực tiễn trong Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là khoa học và cách mạng, mà còn là đạo đức và văn hóa. Người đã từng chỉ rõ, đọc hàng trăm, hàng nghìn quyển sách Mác – Lênin mà ăn ở với nhau không có tình có nghĩa thì làm sao gọi là Mác – Lênin được. Người cũng là nhà tư tưởng mácxít nổi bật nhất khi tiếp cận chủ nghĩa xã hội, tiếp cận nền chính trị của giai cấp công nhân và bản chất của đảng cộng sản từ góc độ đạo đức học và văn hoá đạo đức. Người nói, chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đối lập với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết, Đảng là đạo đức, là văn minh.

Chân lý – một vấn đề của nhận thức luận khoa học – được Hồ Chí Minh mở rộng sang bình diện đạo đức học. Cái gì tốt cho dân, có lợi cho dân, cái đó là chân lý. Phục vụ nhân dân, làm công bộc trung thành và tận tụy của dân là phục tùng chân lý cao nhất, là lựa chọn một lẽ sống cao thượng nhất.

Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đặc biệt chú trọng yêu cầu sáng tạo, không máy móc rập khuôn, muốn vậy phải hiểu rõ đặc điểm, hoàn cảnh và những điều kiện lịch sử cụ thể. Người căn dặn chúng ta phải chú ý học tập kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em, nhưng không được sao chép mà phải có tinh thần độc lập tự chủ. Người nói rõ, ta và Liên Xô rất khác nhau về trình độ phát triển, về lịch sử và văn hoá. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm khác với Liên Xô vẫn là người mácxít.

Nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam là điểm xuất phát về lý luận và thực tiễn, về ý thức hệ của Hồ Chí Minh. Đó chẳng những là cơ sở để có những phát kiến sáng tạo, những cống hiến của Hồ Chí Minh về tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự cống hiến đặc sắc của Người, góp phần làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin và kho tàng lý luận cách mạng thế giới.

Hai là, vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân và nêu lên tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phối hợp chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc. Nguyễn Ái Quốc là người đã viết tác phẩm lý luận mácxít Bản án chế độ thực dân Pháp rất nổi tiếng vào năm 1925. Tác phẩm này là một tổng kết lịch sử, một cáo trạng đối với chủ nghĩa thực dân, để sau đó 20 năm, vào năm 1945, Người viết nên Tuyên ngôn độc lập, khai sinh chế độ dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam độc lập, đồng thời là cáo chung chế độ thực dân ở Việt Nam sau hơn 80 năm tồn tại của nó.

Người phân tích: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” (Sđd, t.1, tr.298). Cách mạng phải có sự phối hợp ở cả chính quốc và thuộc địa, giống như một con chim hai cánh, một cánh vỗ ở thuộc địa, một cánh vỗ ở chính quốc. Sự diễn đạt cụ thể và giản dị trên đây đã hàm chứa tư tưởng về tính triệt để của cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, thực dân và tính tất yếu của sự phối hợp các phong trào cách mạng vì mục tiêu giải phóng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc và ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là biểu hiện lập trường cách mạng triệt để và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trên toàn thế giới.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã nhận rõ, đối với những người lao động và vô sản ở khắp mọi nơi, dù màu da có khác nhau nhưng họ đều có chung một kẻ thù và cũng có chung một mục tiêu tranh đấu. Đế quốc thực dân ở đâu đâu cũng là ác quỷ, phải đánh đổ nó đi. Còn anh em vô sản ở đâu đâu cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau. Trên đời này, suy đến cùng, cũng chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản (Sđd, t.1, tr.266).

Người đề cập tới tình hình Đông Dương và những cơ sở cho sự chín muồi cách mạng ở đó. Đó vừa là những khẳng định khoa học, vừa là những dự báo chính trị mẫn cảm. Người viết: “người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương” (Sđd, t.1, tr.28). Theo đánh giá của Người, “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” (Sđd, t.1, tr.28). Cho đến khi, Luận cương của Lênin được Người hấp thụ như tìm thấy cẩm nang đi đường, Người đã xác định rõ ràng con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản.

Ba là, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân. Trong những năm 20 – 30 của thế kỷ XX, không phải tất cả những người cách mạng và yêu nước, dù đứng trên lập trường cộng sản, đã ý thức đầy đủ và thật sự quan tâm tới vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Song, đây lại là vấn đề cốt tử mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt chú ý, từ khi tham gia hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp. Người đã thẳng thắn phê phán thái độ thờ ơ hoặc lãng quên phong trào cách mạng ở thuộc địa và đòi hỏi Đảng Cộng sản phải xác định rõ trách nhiệm của Đảng đối với việc thúc đẩy và phối hợp hành động với các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Người đã sớm đi đến một kết luận quan trọng: sự nghiệp giải phóng dân tộc phải đồng thời gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã hội; cả hai cuộc giải phóng đó đều là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, là sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Các bản tham luận nổi tiếng của Người tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17/6 đến 8/7 năm 1924) đã chứng tỏ điều đó.

Những luận điểm sau đây cho thấy tính hệ thống và sự nhất quán của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng vô sản: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới” (Sđd, t.1, tr.416). “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân trên thế giới”, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Sđd, t.9, tr.314).

Cái mới và bản lĩnh sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng vô sản là ở chỗ:

– Không tách rời giai cấp khỏi dân tộc.

– Giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, trên nền tảng ý thức hệ của giai cấp công nhân nên cách mạng giải phóng dân tộc với mục tiêu giành độc lập dân tộc phải do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cũng do đó, con đường tiến lên của dân tộc và của xã hội Việt Nam chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội bằng cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Thực tiễn khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển đã mở ra con đường phát triển tốt đẹp nhất cho dân tộc Việt Nam : Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt nền móng lý luận cho cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, đã tìm thấy con đường phát triển đúng đắn, hợp lý, có triển vọng nhất, phù hợp với trào lưu tiến hoá chung của nhân loại và xu thế phát triển của thời đại.

Bốn là, nhờ có lý luận và phương pháp cách mạng đúng đắn, Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc ta đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, đưa dân tộc ta vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thế giới, xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội cũng có những nét sáng tạo đặc sắc, có giá trị và ý nghĩa hiện đại, không chỉ với nước ta mà còn đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác trong loại hình “phát triển rút ngắn” và “quá độ gián tiếp”, do bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện từng bước từ dân chủ nhân dân tới chủ nghĩa xã hội.

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có cả một hệ vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội, từ đặc trưng, bản chất, mục tiêu, con đường, phương thức, mô hình và bước đi cũng như những giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong sự kết hợp giữa tính phổ biến với tính đặc thù, tính giai cấp – dân tộc – nhân dân với tính thời đại và tính nhân loại trong thế giới đương đại ngày nay.

Hồ Chí Minh đã phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học bằng cách bổ sung một cách tiếp cận đạo đức học cũng đồng thời là một quan niệm cụ thể về chủ nghĩa xã hội. Người đã dự cảm từ rất sớm một vấn đề mà ngày nay ta càng thấy rõ tính hệ trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội: Không đánh bại chủ nghĩa cá nhân thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (Sđd, t.9, tr.291).

Cũng như vậy, không đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi thì không thể chống được quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Thành bại của chủ nghĩa xã hội tùy thuộc vào chỗ, những người xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là đội ngũ tiên phong có đủ dũng khí và quyết tâm để đánh thắng thứ “giặc nội xâm” mà Người coi là kẻ thù nguy hiểm nhất hay không? Do đó, chủ nghĩa xã hội không chỉ là kinh tế – một nền kinh tế phồn vinh, giàu có, một thể chế chính trị dân chủ – pháp quyền, đảm bảo quyền làm chủ thực chất của nhân dân, một xã hội công bằng, bình đẳng cho sự phát triển hài hoà cá nhân và cộng đồng, mà còn là một nền tảng đạo đức trong sạch, thấm sâu vào các quan hệ xã hội lành mạnh, một hệ giá trị văn hoá nhân bản, nhân đạo và nhân văn, kết hợp được truyền thống, bản sắc dân tộc với những tinh hoa của thời đại vì độc lập – tự do – hạnh phúc cho mọi con người, mọi dân tộc.

Sự sâu sắc và tinh tế văn hóa, đặc biệt là văn hóa đạo đức của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đem vào tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội một nhiệm vụ chiến lược – “trồng người”, đào tạo, giáo dục, rèn luyện cán bộ, coi đó là công việc gốc của Đảng; và thực hành đạo đức cách mạng được Người quan tâm suốt đời như một chiến lược, cả tư tưởng lẫn hành động. Chiến lược đó là cốt lõi của chiến lược con người, chiến lược xây dựng, phát triển, đồng thời là chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội, làm cho cách mạng, Đảng cách mạng, người cách mạng, có sức mạnh tự bảo vệ. Điều đó cho thấy, tư duy chiến lược của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở tầm thời đại và hiện đại như thế nào, nhất là đem tư tưởng của Người soi rọi vào tình hình hiện nay cũng như trước những đòi hỏi mới của thời đại, trong xu thế toàn cầu hoá và trong bối cảnh hội nhập.

Người chỉ rõ, bản chất sâu xa và tính ưu việt nổi bật của chủ nghĩa xã hội là thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Người khẳng định, không gì quý bằng dân, không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân, và dân chủ là quý báu nhất trên đời của dân. Là chủ thể gốc của mọi quyền lực, nhân dân phải là chủ sở hữu đích thực của dân chủ, phải là chủ xã hội, chủ nhà nước, kiểm soát được nhà nước của mình và xã hội phải là một xã hội dân chủ. Người còn nhấn mạnh, thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Vậy là, Người đã thấy vai trò động lực của dân chủ đối với tiến bộ và phát triển, đối với chủ nghĩa xã hội.

Lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc không chỉ khoa học, cách mạng mà còn là đạo đức, là văn hoá, tức là nhân văn. Người từng nói, chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học sẽ là nguồn sức mạnh vô tận, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận (Sđd, t.9, tr.131). Phải xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa sao cho đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ. Tất cả đều nhằm vào hạnh phúc của nhân dân. Dân chỉ biết đến dân chủ khi dân được ăn no, mặc ấm. Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân vẫn cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì (Sđd, t.4, tr.152).

Mấu chốt của xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là phải dựa vào dân, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Việc gì có lợi cho dân phải quyết làm cho bằng được. Việc gì có hại tới dân phải quyết tránh cho bằng được. Quyền làm chủ của dân, hạnh phúc của dân, sự phát triển tự do, dân chủ, công bằng trong xã hội – đó là những giá trị đảm bảo cho chế độ phát triển bền vững và chủ nghĩa xã hội thực sự là một xã hội văn hoá cao, trong đó, con người là con người xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ và làm chủ, dân tộc trở thành một dân tộc thông thái. Chủ nghĩa xã hội nhân dân và nhân văn trong chiều sâu triết lý nhân văn chủ nghĩa của Hồ Chí Minh là ở đó. Trong những tư tưởng hàm xúc đó đã toát lên đầy đủ những vấn đề cốt yếu về mục tiêu, bản chất, động lực, cách làm và bước đi của chủ nghĩa xã hội. Đó là chủ nghĩa xã hội Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là một trong những cống hiến sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

Năm là, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một quan hệ biện chứng, thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn – phát triển và đổi mới. Những luận giải cô đọng, hàm xúc của Hồ Chí Minh cho thấy, độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện của chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng chính trị, là cơ sở dân tộc và chủ quyền nhân dân của chủ nghĩa xã hội. Theo đó, chủ nghĩa xã hội sinh thành, phát triển và hoàn thiện là đảm bảo thực chất, đầy đủ và bền vững nhất của độc lập dân tộc. Đó cũng là thước đo dân chủ và tự do của phát triển xã hội, một xã hội văn minh, hiện đại mà lịch sử tìm thấy sự biểu hiện tốt nhất ở chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là cách thức tổ chức xã hội tốt nhất để làm cho Tổ quốc, đất nước, quốc gia – dân tộc trường tồn, con người cá nhân và cộng đồng xã hội được phát triển tự do, toàn diện mọi khả năng sáng tạo, được thụ hưởng hạnh phúc vật chất, tinh thần trong một môi trường lành mạnh, tốt đẹp nhất. Đó cũng chính là hàm ý sâu xa trong một chân lý lớn mà Hồ Chí Minh nêu ra: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Giá trị ấy cũng chính là chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa xã hội phát triển thông qua đổi mới, sáng tạo và hiện đại hóa./.

———————

* Bài viết của Đ/c Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nhân dịp kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2000)

PGS.TS Tô Huy Rứa