Sức mạnh của cả dân tộc được khơi dậy và tập hợp nhờ quan điểm “hết sức chăm nom
đến đời sống nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội; con người là chủ thể của các mối quan hệ xã hội – lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, con người có sức mạnh rất to lớn. Trong con người có sẵn các nguồn lực, bao gồm: Nguồn lực của cải, tài chính; Nguồn lực sức lao động; Nguồn lực trí tuệ:
Không dừng ở việc xác định vai trò của con người đối với sự nghiệp cách mạng và các nguồn lực có trong con người, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ phải làm gì và làm như thế nào để phát huy được nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng. Người đề cập tới nhiều khía cạnh, có thể khái quát ở mấy điểm chính sau:
Thứ nhất, muốn phát huy sức mạnh của con người, Đảng, chính quyền, mỗi cá nhân phải có lòng thương yêu vô hạn, sự cảm thông, sự tin tưởng tuyệt đối vào con người, vào nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên “trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng vô tận”(1). “Việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(2). Người cũng nhấn mạnh: nếu không tin dân thì dân cũng không tin Đảng, Chính phủ. Nếu dân chúng không tin Đảng, Chính phủ thì “biết, họ cũng không nói. Nói, họ cũng không nói hết lời”. Vì vậy, “đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng đáng là một người đảng viên”(3). Như vậy, thương yêu vô hạn, sự cảm thông, tin tưởng tuyệt đối vào con người, quyết tâm phấn đấu giải phóng con người trở thành tiền đề đầu tiên để có thể phát huy sức mạnh vốn có trong con người.
Thứ hai, để phát huy sức mạnh của con người, Đảng, Chính phủ phải hoạch định, xác lập một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn, phục vụ cho lợi ích của dân tộc tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề an sinh xã hội. Trước hết là chính sách phát triển sản xuất và tiền lương phải hợp lý. Tiền lương của người lao động phải luôn gắn chặt với hiệu quả công việc, bởi lương là một trong những thước đo công sức, trình độ, thái độ, ý thức, tinh thần lao động. Nâng lương là một trong những biểu hiện nâng cao mức sống, mức thu nhập của người lao động. Nếu đồng lương không tương xứng với giá trị sức lao động thì những tư liệu sinh hoạt cần thiết của người lao động cũng không được đáp ứng, điều này sẽ đánh mất động lực của quá trình sản xuất và nền kinhh tế tất yếu sẽ bị ngưng trệ.
Theo Hồ Chí Minh, cần thi hành một hệ thống chính sách xã hội hướng tới con người như: thi hành một nền chính trị liêm khiết, cải thiện đời sống nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa…Nội dung chính sách phải phong phú, đa dạng. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ phải lấy dân làm gốc, quan tâm chăm lo đến mọi tầng lớp người trong xã hội. Chính sách xã hội đúng đắn là một chính sách lấy việc phát huy sức mạnh của nhân dân, xây dựng từng bước con người mới là trung tâm. Cần chú ý đến việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Nếu lợi ích cá nhân không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”(4). Hồ Chí Minh còn thấy được vai trò động lực cực kỳ quan trọng của lợi ích cá nhân. “Quần chúng rất nhiều sáng kiến, họ hiểu biết rất mau, nhất là những cái thuộc về quyền lợi của họ”(5). Điểm mấu chốt để có thể giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung đó là phải tìm ra điểm tương đồng, lợi ích chung giữa những cá nhân, giai cấp. Mẫu số chung đó chính là lợi ích dân tộc.
Thứ ba, muốn phát huy được sức mạnh của con người thì phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của con người, các quyền lợi của con người phải được bảo vệ và ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Ý thức về tính cấp thiết phải xây dựng, ban hành và thực hiện những chính sách về thể chế, pháp chế đảm bảo cho hoạt động của Nhà nước dân chủ, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng cùng tập thể Trung ương Đảng, Chính phủ ban hành Hiến pháp 1946. Bản Hiến pháp đã phản ánh và quy định chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó có quan hệ rất chặt với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ, quần chúng đề ra sáng kiến. Vì thế Người luôn luôn nhắc nhở: Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai với nhân dân. Theo Người, dân chủ là “chìa khóa” vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn. Phát huy dân chủ của nhân dân phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước phải tiếp tục thể chế hóa bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(6). Có thể thấy, vai trò của giáo dục, đào tạo là rất quan trọng để từ đó tạo tiền đề cho việc phát huy sức mạnh của con người. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa có thể được hoàn thiện trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế – xã hội, nhưng phải có điều kiện. Một trong những điều kiện đó là việc coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo. Giáo dục, đào tạo có vai trò to lớn để có một đội ngũ lao động giỏi, nâng cao dân trí, đào tạo người lao động trẻ có trình độ khoa học – kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, có phẩm chất cần thiết của người lao động mới, có tri thức văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, có ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, có phong cách và phương pháp làm việc khoa học.
Về mục tiêu của chiến lược giáo dục và đào tạo là nhằm đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Muốn đạt được mục tiêu chiến lược thì nội dung, phương pháp giáo dục phải toàn diện. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”(7). Nó thể hiện sự kết hợp giữa nội dung toàn diện và phương pháp toàn diện, giữa nhận thức và hành động, lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và sự nêu gương thực hành, giữa tư tưởng và lối sống, nếp sống. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc học là để sửa chữa tư tưởng, để tu dưỡng đạo đức cách mạng, để tin tưởng, học để hành. Do đó, phải học ở trường, ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân. “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, “giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”(8).
Vấn đề phát huy nhân tố con người được Hồ Chí Minh đề cập với nội dung sâu sắc và toàn diện, đầy tính cách mạng và khoa học. Không chỉ đánh giá cao vị trí, vai trò của con người, thấy được tính tất yếu của vấn đề phát huy nhân tố con người, Hồ Chí Minh còn xây dựng được một hệ thống các giải pháp toàn diện, coi việc thực hiện đúng đắn các giải pháp đó là khâu then chốt, quyết định thành công.
2. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào việc phát huy nhân tố con người để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay
Qua hơn 30 năm đổi mới, trên cơ sở đánh giá thực tiễn và tổng kết lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: con người và các nguồn lực của con người đóng vai trò quyết định sự phát triển của đất nước. Nhân tố con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật rất quan trọng nhưng quan trọng nhất vẫn là nhân tố con người. Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020, Đảng ta xác định mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững…Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế…Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đặt ra một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, về nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”(9). Như vậy, đến Đại hội lần thứ XII, vấn đề “phát triển con người toàn diện” được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016 – 2020 và “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”. Đây là bước tiến trong nhận thức của Đảng sau 35 năm đổi mới, khẳng định và nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của việc phát huy nhân tố con người, phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kì hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay, phát huy nhân tố con người luôn gắn liền với xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc. Trong điều kiện khoa học và công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức phát triển, hội nhập gia tăng thì mối quan hệ biện chứng này càng trở nên quan trọng. Đối với nước ta, để phát huy nguồn lực con người một cách hợp lý, hiệu quả cần phải có một hệ thống các biện pháp đồng bộ, trong đó, cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ
Phát triển mạnh mẽ giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, một mặt, phục vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác, xây dựng tiềm lực trí tuệ – cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Trí tuệ là một trong những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân tố con người, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự xuất hiện của kinh tế tri thức hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho con người, trước hết là với các thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải có sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Chú trọng phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)(10).
Mặt khác, để phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo con người trong sự nghiệp đổi mới, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả lực lượng lao động. Đồng thời, cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân trí và phát triển nguồn nhân lực đồng đều ở các vùng miền, các cộng đồng xã hội; gắn chiến lược phát triển khoa học công nghệ với nâng cao hàm lượng trí tuệ trong nhân tố con người. Từ chỗ có nguồn lực con người bảo đảm về chất lượng, cần xây dựng và thực hiện những phương thức, cơ chế phát huy nguồn lực đó.
Thứ hai, quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương châm bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển.
Lợi ích chính là điểm mấu chốt, là một trong những động lực hàng đầu nhằm phát huy nhân tố con người. Theo đó, để phát huy vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước, không thể không đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng và lợi ích toàn xã hội, giữa lợi ích trực tiếp trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần… Bên cạnh đó, cần coi trọng và thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội theo hướng lấy con người là trung tâm. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước cần có chính sách bảo đảm công bằng xã hội, tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ sự tăng trưởng của nền kinh tế, có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ liên quan đến phát triển con người. Phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu theo Chương trình nghị sự 2030 vì phát triển bền vững. Phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hoà nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản(14).
Thứ ba, xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội nhằm tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy vai trò của nguồn lực con người trong các lĩnh vực.
Nhân tố con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong mọi hoạt động thì nhất thiết phải xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ, trong đó ngày càng quan tâm đến dân chủ trực tiếp nhằm hiện thực hoá những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội. Việc phát huy dân chủ không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho tất cả mọi người có thể cống hiến năng lực của mình cho xã hội, mà còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế phản biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy trách nhiệm công dân. Nói cách khác, thông qua quá trình dân chủ hoá, trí tuệ của toàn dân được huy động và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Đó cũng là lý do tại sao Hồ Chí Minh coi dân chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi vấn đề mà thực tiễn cách mạng đặt ra. Tuy nhiên, thực hiện dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng “dân chủ” để chia rẽ khối đại đoàn kết, làm rạn nứt sự đồng thuận xã hội. Lấy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước làm nòng cốt để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ nhằm giải phóng mọi năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân, góp phần ổn định chính trị – xã hội, tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân tố con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là điều kiện để chúng ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đến thắng lợi. Phát huy nhân tố con người để phát triển kinh tế – xã hội, đó là một vấn đề có tính quy luật. Trong giai đoạn hiện nay, phải phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân.
————————————-
(1), Sđd, t.12, tr.283
(2), Sđd, t.4, tr.21
(3), Sđd, t.7, tr.55
(4), Sđd, t.11, tr.610
(5), Sđd, t.8, tr.48
(6), Sđd, t.11, tr.528
(7), Sđd, t.12, tr.647
(8), Sđd, t.6, tr.208
(9), Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.219
(10), (14), Dự thảo Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, tr.49, tr.62.