Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam

Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm hai nội dung cơ bản: dân tộc với tư cách là những quốc gia trên thế giới đã tồn tại độc lập trong trường kỳ lịch sử; và dân tộc với tư cách là những dân tộc đa số và thiểu số trong từng quốc gia. Nhân kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu (1890 – 2020) và chào mừng đại hội Đảng các cấp, hướng tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, bài viết giới thiệu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam.

 

Bác Hồ với đồng bào các dân tộc. (Ảnh tư liệu)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng                                                                                         

Đặc điểm chủ yếu, nổi bật, xuyên suốt trường kỳ lịch sử về mối quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam là sự đoàn kết, bình đẳng với nhau. Trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, các dân tộc anh em đã chung lưng đấu cật, đổ mồ hôi, xương máu để xây dựng giang sơn gấm vóc Việt Nam. Đặc điểm và truyền thống đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, kết hợp với học thuyết Mác – Lênin về vấn đề dân tộc là những nhân tố quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới và ở Việt Nam. “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, đó là mục tiêu được Hồ Chí Minh đặt ra từ khi ra đi tìm đường cứu nước. Ngay từ năm 1923, khi còn hoạt động ở nước ngoài, Người đã nói rõ: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1). Năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong Cương lĩnh đầu tiên, Người xác định: Lực lượng tham gia cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là quần chúng nhân dân trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là các dân tộc, các giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo và các nhân sĩ yêu nước… đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất thành một lực lượng mạnh mẽ để đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc. Lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là Đảng Cộng sản Việt Nam – bộ tham mưu chính trị của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.

Sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam được thể hiện rõ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Người đặt quyền lợi của dân tộc cao hơn hết thảy. Theo Người, mục tiêu giành độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam phải thực hiện trước tiên, trong lúc các mục tiêu, nhiệm vụ khác phải phục tùng và thực hiện từng bước. Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Người về nước cùng Đảng ta trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu muôn đời, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(2). Đáp lời kêu gọi của Người, các dân tộc từ miền ngược đến miền xuôi đoàn kết đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc và hành động cách mạng của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.

Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mở đầu Tuyên ngôn, Người mượn câu nói bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của nước Pháp, rằng: “Tất cả mọi người ta sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” nhằm kiến giải cho những lập luận của Người: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trong Tuyên ngôn, Người nêu rõ, cuộc đấu tranh của các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, giải phóng con người, thực hiện quyền tự do, bình đẳng, dân chủ cơ bản cho mọi người, cho mọi dân tộc; gắn độc lập của dân tộc với tự do, bình đẳng của con người, bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản và quyền cơ bản của con người. Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(3). Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được coi là bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của các dân tộc. 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam còn được thể hiện rõ trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 do Hồ Chí Minh đứng đầu soạn thảo, trong đó Điều 1 ghi: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo, và Điều 8 ghi: “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung”. Trong báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959, một lần nữa, Người lại khẳng định: “Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”.

Đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc đồng thời là nội dung cơ bản của chính sách dân tộc được Hồ Chí Minh nâng lên tầm cao mới. Theo Người, đoàn kết dân tộc là nguyên tắc, là điểm xuất phát và là mục tiêu cần đạt; bình đẳng dân tộc là nguyên tắc và là cơ sở để đạt được đoàn kết lâu dài, bền vững. Người nói: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”(4). Các quan hệ đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc nước ta được Người  nói đến: “như anh em ruột thịt” mang tính chất tự giác, tích cực, vô tư; “có nhau” tức là đoàn kết; “cùng nhau”, “giúp nhau”  lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, cùng vui hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ tức là bình đẳng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh thấu hiểu tình hình và đặc điểm của các dân tộc, coi đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc nước ta có tầm quan trọng chiến lược. Người đánh giá cao vị trí, vai trò của miền núi và các dân tộc thiếu số trong sự nghiệp cách mạng. Miền núi là nơi các dân tộc thiểu số sinh sống, có vị trí quan trọng về quốc phòng và kinh tế. Truyền thống đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc nước ta là rất quý báu, được Người phát huy trong chính sách đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, đưa cách mạng nước ta giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Người nói: “Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta… Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất các dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền độc lập, tự do của chúng ta”(5).

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc phải được tổ chức thành Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng do Người sáng lập và rèn luyện đã hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất với hình thức và tên gọi phù hợp như: Hội Phản đế Đồng minh, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, hiện nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngay từ năm 1939, trong thư Những chỉ thị mà tôi nhớ và truyền đạt, từ nước ngoài, Người đã căn dặn Đảng ta: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(6). Quan điểm của Hồ Chí Minh, đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc là phải chân thành, rộng rãi, lâu dài, bền vững, có lãnh đạo, dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là điểm cốt lõi để phân biệt tư tưởng Hồ Chí Minh với tư tưởng của các sĩ phu yêu nước lớp trước. Theo Người, đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc phải được thể hiện thành chủ trương, chính sách cụ thể, chứ không phải là thủ đoạn chính trị. Người khuyên: “Là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”(7).

Thực hiện đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc cần phải tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, chống lại tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi và tự ti dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn đấu tranh với tư tưởng dân tộc lớn xem thường các dân tộc nhỏ, đồng thời phê phán dân tộc hẹp hòi, cục bộ và tự ti dân tộc. Người chỉ rõ: “Các dân tộc xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”(8). Đối với các dân tộc thiểu số, Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm đặc biệt. Người luôn khẳng định những truyền thống tốt đẹp và đánh giá cao sự đóng góp của họ đối với sự nghiệp cách mạng: “Đồng bào miền núi có truyền thống cần cù và dũng cảm. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến, đồng bào miền núi đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh để thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, đồng bào miền núi đang cố gắng góp phần xứng đáng của mình”(9). Để thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng thật sự, Người yêu cầu Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện với những chính sách cụ thể, mọi ngành, mọi cấp phải thực hiện tốt chính sách dân tộc trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, mà trực tiếp là các cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những phong tục, tập quán riêng. Những phong tục, tập quán ấy truyền từ đời này qua đời khác, trở thành những quy định không dễ thay đổi. Người dân tộc khác biết đến các phong tục này mà tôn trọng và làm theo sẽ được đối xử thân thiện như anh em một nhà. Hồi còn hoạt động ở Việt Bắc, do luôn chú ý tìm hiểu nên Người am hiểu phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số. Người thường mặc quần áo, nói tiếng và sinh hoạt cùng đồng bào các dân tộc thiểu số, nên từ cụ già đến trẻ em ai ai cũng quý mến, coi Người như người thân, “người của bản”. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải tìm hiểu, hết sức tôn trọng phong tục, tập quán, văn hóa, lối sống, lối sinh hoạt của đồng bào các dân tộc thiểu số.   

Hồ Chí Minh còn yêu cầu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số phải thiết thực, thận trọng, phải tiến hành từng bước vững chắc để phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Người dặn: “Miền núi đất rộng người thưa, tình hình vùng này không giống tình hình vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ trương, chính sách phải thật sát với tình hình thực tế của mỗi nơi. Tuyệt đối chớ rập khuôn, chớ máy móc, chớ nóng vội”(10). Người còn yêu cầu phải tạo mọi điều kiện để phát huy quyền làm chủ của các dân tộc thiểu số, giúp đồng bào tiến bộ về mọi mặt, phát huy tinh thần yêu thương, giúp đỡ nhau để nhanh chóng đưa các dân tộc miền núi thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, từng bước cải thiện đời sống, phát triển sản xuất, văn hóa để nhanh chóng tiến kịp các dân tộc miền xuôi.

Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số. Người đề ra phương hướng, phương châm, mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu của công tác này, đồng thời Người còn trực tiếp chỉ đạo việc bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, Người rất quan tâm đào tạo cán bộ người dân tộc. Mấy chục “con đại bàng” được Người đào tạo từ Tĩnh Tây (Trung Quốc) năm 1941 được phái về Cao Bằng để xây dựng phong trào Việt Minh cứu quốc hầu hết là con em các dân tộc thiểu số. Sau này, Người đều chú ý đào tạo những cán bộ người dân tộc. Ví như đồng chí Hoàng Đình Giong, người dân tộc Tày là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đầu tiên của Đảng. Trong Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, quân đội, các ngành của Đảng và Nhà nước ta các khóa đều có cán bộ người dân tộc thiểu số. Số cán bộ người dân tộc thiểu số được Người đào tạo trong tiến trình cách mạng Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào các phong trào cách mạng ở các vùng miền núi cũng như trong sự nghiệp cách mạng của cả nước.

Hồ Chí Minh thường xuyên khuyến khích, động viên các tầng lớp, đồng bào các dân tộc Việt Nam cố gắng vươn lên để phát triển kinh tế và văn hóa, xã hội, nhắc nhở cán bộ các dân tộc khắc phục tư tưởng tự ti, ỷ lại, cho mình là nhỏ bé, không dám làm những việc lớn, mà phải cố gắng vươn lên xây dựng quê hương, làng bản của mình giàu đẹp. Không những thế, Người còn yêu cầu cán bộ dân tộc Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ người dân tộc về mọi mặt, làm cho anh em tiến bộ nhanh, để họ tự quản lý những công việc ở địa phương, chứ không nên bao biện làm thay. Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng, Người không quên căn dặn Đảng ta: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(11).

Bình đẳng giữa các dân tộc tiếp tục được mở rộng

Sau hơn 30 năm đổi mới, khối đại đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các dân tộc; tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực vào thành tựu chung của đất nước. Đạt được kết quả trên là do Đảng, Nhà nước luôn chủ trương nhất quán, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta.

Tuy nhiên, sức mạnh đại đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; chưa dự báo và đánh giá chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc chưa kịp thời được thể chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng thực hiện chưa nghiêm túc. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp, có lúc có nơi chưa sâu sát, còn có biểu hiện hành chính hóa, chưa thiết thực, hiệu quả. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng còn thiếu và chưa đồng bộ, v.v..

Đại đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta, trong giai đoạn hiện nay cần tập trung làm tốt một số nhiệm vụ sau:

 Một là, quán triệt và thực hiện thật tốt một trong những nhiệm vụ mà Đại hội lần thứ XII của Đảng đã đề ra: “Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”(12). Thực hiện nhất quán chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ; thực hiện tốt cuộc vận động xóa đói giảm nghèo; thu hẹp và làm triệt tiêu sự chênh lệch về đời sống do lịch sử để lại giữa các dân tộc.

Hai là, tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc. Hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách, phát huy vai trò của các dân tộc trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam về sự tồn tại và phát triển của từng dân tộc gắn liền với sự tồn tại và phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, không một dân tộc hay thành phần dân tộc nào tách khỏi khối cộng đồng chung lại có thể tồn tại và phát triển được.

Ba là, đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc phải dựạ trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các dân tộc ở nước ta; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các dân tộc, bảo đảm các dân tộc phát triển, đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới, bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung…

Bốn là, coi trọng phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người các dân tộc, nhất là đân tộc thiểu số, xây dựng đội ngũ trí thức người dân tộc. Xây dựng quy hoạch và phương pháp đào tạo đáp ứng mục tiêu trước mắt và lâu dài đối với các khu vực và từng dân tộc cụ thể ở miền núi. Có chính sách ưu tiên đặc biệt đối với học sinh, sinh viên là con em các dân tộc thiểu số; có chính sách ưu đãi đối với người ở miền xuôi làm công tác ở miền núi, nhất là những người làm công tác văn hóa, giáo dục ở miền núi. Cần động viên lực lượng già làng, trưởng bản các dân tộc thiểu số phát huy vai trò của họ trong sự nghiệp đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta.

Có thể nói, những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn tám thập kỷ qua chứng minh tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.       

 Chú thích:

            1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.1, tr. 192.

            2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng 1930 – 1945, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội, 1977, t.3, tr.196.

            3, 4, 5, 6,7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1, 217, 217 – 218; t.3, tr.139; t.4, 246 – 247.

            8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.560.

            9, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 608, 611.

            11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 511.

           12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.79.

PGS.TS Lê Văn Yên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật)