Hồ Chí Minh và Cương lĩnh xây dựng đất nước thời hậu chiến

Người Cộng sản Hồ Chí Minh và mấy dòng dặn lại

Hồ Chí Minh và bản Di chúc Người để lại thực sự là một mẫu mực về sự nhân ái, vị tha, khoan dung, độ lượng, đầy tình nghĩa và sâu sắc cùng với sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa đạt đến sự hoàn chỉnh của chân, thiện, mỹ. Mỗi câu, mỗi chữ đều hiển hiện trăn trở, suy tư và tình thương yêu của Người, có sức cảm hóa, lay động muôn triệu trái tim người dân Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý.

Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời phấn đấu cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người mà Người còn mang theo khát vọng về một đất nước Việt Nam độc lập, hoà bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh cùng một thế giới hạnh phúc cho con người vào cõi vĩnh hằng. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, giữa những ngày tháng miền Bắc đang chống chọi cùng mưa bom, bão đạn của đế quốc Mỹ (1965), một Hồ Chí Minh giữa bộn bề công việc quốc gia lại dành thời gian về thăm và tưởng nhớ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn. Càng không phải ngẫu nhiên, trong những năm cuối của đời mình, Người lại trăn trở, xót xa nỗi đau “nhân thế” của tiền nhân đã chôn vùi trong lòng đất mẹ bao năm. Tại đền thờ tiền nhân, Người dừng lại hồi lâu ngẫm đọc những dòng chữ trên văn bia, leo lên Thạch Bàn; lường trước được quy luật khắc nghiệt của tạo hoá, Người biết rõ điều gì ắt sẽ qua đi, điều gì ắt sẽ đến và điều gì là trường tồn. Với phong cách ung dung, tự tại của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, Hồ Chí Minh gửi những suy tư “theo đức hiếu sinh để toàn vẹn cho sự sống còn của nhân dân” trong tâm khảm mình vào những lời cuối cùng để lại cho hậu thế.

Chuẩn bị cho chuyến đi xa vĩnh viễn của mình, một Hồ Chí Minh khi còn anh minh, tỉnh táo đã dành mỗi ngày khoảng từ 1 đến 2 giờ của những ngày tháng 5 đẹp trời (từ năm 1965 đến năm 1969) để viết “Tài liệu liệu tuyệt đối bí mật” gửi lại cho mai sau. “Tài liệu tuyệt đối bí mật” – bản Di chúc lịch sử được Hồ Chí Minh khởi thảo tại Hà Nội, vào dịp sinh nhật lần thứ 75 (5/1965). Trong những năm tiếp sau đó, cũng vào dịp kỷ niệm ngày sinh, Người lại đọc, suy ngẫm, trăn trở để chỉnh sửa, bổ sung vào những “lời dặn lại” đặc biệt của mình, cho đến khi trái tim đó ngừng đập vĩnh viễn vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969.

Khi Hồ Chí Minh khởi thảo Di chúc, trong nước, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang ở vào thời kỳ quyết liệt nhất: Ở miền Nam, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa 50 vạn quân vào miền Nam, chuyển từ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”; ở miền Bắc – hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam đang phải tiếp tục chống lại cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt nhằm đưa nơi này “trở về thời kỳ đồ đá”… Trong khi đó, tình hình quốc tế cũng có nhiều biến động; giữa các Đảng anh em trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng còn những bất đồng,v.v.. Đánh giá đúng, tiên lượng được sự kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam; với khí phách anh hùng được kết tinh từ truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; với sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong tương lai. Vì vậy, trong Di chúc, Người khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”[1]; “Dù khó khăn đến mấy nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi đất nước ta, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”[2] và Người hẹn “tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc để chúc mừng đồng bào, cán bộ, và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quí của chúng ta”[3].

Lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh rằng, mỗi thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều có sự ủng hộ về tinh thần và lực lượng, sự đoàn kết, sẻ chia của các nước anh em, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Trong Di chúc, không chỉ khẳng định những thắng lợi mà nhân dân Việt Nam giành được luôn gắn liền với tình đoàn kết giúp đỡ của bạn bè quốc tế; bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với sự chi viện quý báu đó, Hồ Chí Minh còn dự định khi chiến tranh kết thúc “sẽ thay mặt nhân dân ta đi thǎm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp nǎm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”[4].

Một Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá cao vai trò của tình đoàn kết quốc tế; luôn chung sức, góp phần xây dựng và củng cố tình đoàn kết mà còn nặng trĩu tâm tư, đau lòng trước sự rạn nứt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!”. Đã từng thực hiện sứ mệnh hòa bình để góp phần củng cố tình đoàn kết giữa các đảng anh em, Hồ Chí Minh tiếp tục “sứ mệnh” ấy khi dặn lại và mong “Đảng sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”; đồng thời, “tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”[5].

Với chiều sâu của tư tưởng và dung dị trong diễn đạt giữa cái lớn lao, cái vĩ đại (vấn đề quốc gia, quốc tế) với cái điềm đạm, sâu lắng nhưng mãnh liệt, nồng nàn về cuộc sống đời thường (về việc riêng); với trách nhiệm trước hậu thế, Hồ Chí Minh đã cân nhắc từng ý, từng lời dặn lại mà mỗi ý, mỗi lời đều chân thành, trong sáng, tự nhiên như chính cuộc đời Người. Ung dung, thư thái đến lạ thường đối với “việc riêng”, Hồ Chí Minh đã từ nhận thức quy luật muôn đời của tạo hóa, dẫn câu thơ của Đỗ Phủ “nhân sinh thất thập cổ lai hy”, ví mình đã là hạng người “xưa nay hiếm” để thanh thản chuẩn bị về với cõi vĩnh hằng. Bằng cách nói nhẹ nhàng, chỉ là để “phòng khi tôi sẽ đi gặp các cụ Các Mác, cụ Lê Nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột”[6], Người khiêm nhường tự xem mình là một người lính nhận sự ủy thác của nhân dân, đã “suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Cho nên, cũng thật giản dị, Người “không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Suốt đời tự nguyện, tận tâm, tận lực làm người “công bộc”, “người đày tớ” thật trung thành của nhân dân, nên khi từ biệt thế giơi này, Người vẫn khôn nguôi ý niệm chăm lo cho nhân dân, không muốn vì mình mà nhân dân vất vả. Vì thế, Hồ Chí Minh dặn lại hãy hỏa táng và “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”…

 

TS Nguyễn Thị Hoa Xinh phát biểu tại hội thảo khoa học
“Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Ánh sáng của trí tuệ và niềm tin”.

Cuối cùng, Người “để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng” và  không quên “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”; đồng thời, hy vọng “toàn Đảng ta, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[7].

Chắt chiu về tư tưởng, sâu lắng trong tâm hồn, mẫu mực về đạo đức và phong cách, hiển hiện tầm cao một cốt cách lớn “cao mà không xa”, “sáng mà không chói” trong Di chúc, từ Di chúc của Hồ Chí Minh không chỉ hàm chứa những trăn trở, suy tư sâu sắc về dân tộc và quốc tế, hiện tại và tương lai của nước nhà mà còn hiển hiện tình thương yêu vô bờ bến với thiên nhiên, con người và cuộc đời. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và hành trình xây dựng đất nước Việt Nam trong tương lai.

Cương lĩnh tái thiết đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định khát vọng xây dựng một đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trong tương lai, ở vào thời khắc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy cam go, Hồ Chí Minh không chỉ lường trước những khó khăn, thách thức của cách mạng Việt Nam mà còn dự cảm  trước những phức tạp, đầy gian nan của đất nước thời hậu chiến. Người nhấn mạnh: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man”[8]; đồng thời, hoạch định một kế hoạch – một Cương lĩnh hành động để xây dựng và phát triển đất nước trong tương lai, dù biết rằng “đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”[9].

Thấu hiểu sâu sắc rằng “phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt” bao giờ cũng khó, Người khẳng định, “xây dựng lại đất nước là một cuộc cách mạng “rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất vẻ vang” và đó cũng chính là một cuộc chiến đấu nhằm “chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những gì mới mẻ, tốt tươi”; đồng thời nhấn mạnh, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân”. Ngắn gọn nhưng súc tích, nội dung này bao hàm một kế hoạch tái thiết đất nước tổng thể, “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp” trên nhiều lĩnh vực, không ngoài mục đích không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Cụ thể, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo để tránh bị động, thiếu sót và sai lầm”[10] để “xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc…”[11]. Sự “chu đáo”, “chủ động” ở đây theo Người là phải chuẩn bị “tái thiết” lại lực lượng lãnh đạo cách mạng; phải có chiến lược xây dựng đội ngũ kế cận; phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, để củng cố và nhân nguồn sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân – những nhân tố quan trọng, đảm cho cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước thành công.

Trong kế hoạch “tái thiết” của mình, Hồ Chí Minh căn dặn cụ thể về từng đối tượng và những việc cần phải làm như sau:

Một là, “trước hết nói về Đảng”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”[12]. Luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và với tiên liệu của mình về sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên khi đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, trong Di chúc, Người đã đặt nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng lên “trước tiên”. Thực tế, “chỉnh đốn lại Đảng” là yêu cầu khách quan, tất yếu, là công việc nội tại, thường xuyên của Đảng cầm quyền, để “làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[13]. Hơn nữa, vì “Đảng ta một đảng cầm quyền”, nên muốn ra sức làm tròn nhiệm vụ trước Tổ quốc và nhân dân, muốn liêm chính và phụng sự trong tư tưởng và hành động, thì phải tập trung thực hiện 3 nội dung chính. 1) “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. 2) “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. 3) “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” [14]. Đây chính là những nội dung quan trọng về lý luận xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ của một Đảng cách mạng chân chính.

Hai là, đối với “đoàn viên và thanh niên” – lực lượng kế cận rường cột của Đảng, Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”[15].  Với, “những chiến sỹ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong”, Đảng và chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy học thêm các ngành, các nghề để tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[16]. Sự lựa chọn chính xác, thấu tình đạt lý để dự liệu và xây dựng lực lượng kế cận, đảm bảo sự chuyển giao thế hệ liên tục trong Di chúc không chỉ thể hiện tầm nhìn xa, chiến lược của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ đất nước sau chiến tranh mà còn thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh đối với con người, vì con người.

  

Tuổi trẻ Đoàn Khối các cơ quan Trung ương khánh thành công trình
“Vườn cây thanh niên” tại tỉnh Cao Bằng.

Ba là, “đầu tiên là công việc đối với con người”- con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, nên chăm lo cho con người là nội dung chính cũng là việc phải làm “đầu tiên” trong kế hoạch tái thiết đất nước. Một Hồ Chí Minh luôn yêu thương nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, bao dung, nhân hòa trong từng cách xử thế đã không quên dành tình thương yêu một “đối tượng” nào trong “các tầng lớp nhân dân của mình”- những người đã không quản sức lực, máu xương cống hiến, hy sinh cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Nội dung này cũng được Hồ Chí Minh viết dường như dài nhất, trĩu nặng nhất trong Di chúc.

Trân trọng mỗi sự đóng góp, với những người “đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Người mong “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh””[17], để họ không chỉ được ổn định cuộc sống lâu dài,  không là “gánh nặng” cho xã hội mà còn tiếp tục góp sức cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Với những người đã hy sinh vì nền độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ”[18]. Mang đậm giá trị nhân văn, lời căn dặn của Người không chỉ ghi nhận sự hiến dâng của các anh hùng liệt sĩ đối với độc lập, tự do của Tổ quốc, cuộc sống bình yên của nhân dân mà còn góp phần giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho muôn đời thế hệ con cháu mai sau. Đó chính là kế thừa và phát huy giá trị truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, đạo lý “đền ơn đáp nghĩa” tốt đẹp của dân tộc.

Với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ) còn gặp khó khăn trong cuộc sống và lao động, chính quyền địa phương phải “giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”. Giúp đỡ thân nhân các gia đình thương binh, liệt sĩ như Hồ Chí Minh căn dặn không chỉ là những “hành động” đền ơn, đáp nghĩa thiết thực mà còn thể hiện tính nhân văn trong chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.

Với những người “phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất”, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”[19] và “bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”, đó cũng chính là tâm nguyện giải phóng phụ nữ, giải phóng con người thật sự trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu,v.v.., Hồ Chí Minh yêu cầu “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”[20].

Với “đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ”, Người đề nghị “miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”[21]. Đề nghị của Người mang đến cho người nông dân sự động viên to lớn. Và không chỉ dừng ở đó, khi đề nghị thi hài mình được hỏa táng, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh mục đích của yêu cầu này chính là nhằm để “tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng”[22] của nông dân.

Toàn bộ phần viết về công việc tái thiết đất nước được Hồ Chí Minh bổ sung vào bản Di chúc (tháng 5/1968). Trọn vẹn một tấm lòng vì dân, vì nước, những điều Hồ Chí Minh dặn lại thể hiện một chương trình hành động rõ ràng, cẩn trọng để xây dựng đất nước sau chiến tranh; trong đó, kết tinh khát vọng và tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Di chúc thể hiện rõ việc vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện của Việt Nam sau những năm dài chiến tranh; tư tưởng trọng dân, coi nhân dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước; chỉ dẫn và giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hoá, giữa công bằng và tiến bộ xã hội gắn với việc chăm lo cho con người, vì con người thời kỳ cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đã đi xa và Di chúc của Người được thấm nhuần và thực hiện cũng đã 50 năm, nhất là trong hơn 30 năm đất nước Việt Nam tiến hành đổi mới và hội nhập quốc tế. Có thể khẳng định rằng, thực hiện và làm theo những chỉ dẫn của Người trong Di chúc, một đất nước Việt Nam tái thiết thành công, vươn mình và ngày một phát triển, đã khẳng định vị thế của mình trong khu vực và trên trường quốc tế. Dù còn không ít khó khăn và thách thức, song với quyết tâm chính trị và bản lĩnh của một Đảng cầm quyền do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, với những gì đã đạt được trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là gắn thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” theo Di chúc, nhất định Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong tương lai./.

———————————

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.618

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.612

[3]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.618

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.618

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.613

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.621

[7]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.614

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.617

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611-612

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.612

[16]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616-617

[17]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616

[18]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616

[19]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.617

[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.617

[21]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.617

[22]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.615

TS. Văn Thị Thanh Mai, Ban Tuyên giáo Trung ương
TS. Đinh Quang Thành, Đại học Giao thông vận tải

Theo http://www.tuyengiao.vn