Thăm lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (13/9/1958). |
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo là một vấn đề rộng lớn, bao quát các vấn đề từ mục tiêu, nguyên lý, phương châm giáo dục, nội dung, phương thức, phương pháp giáo dục-đào tạo, cho đến tổ chức, quản lý, xây dựng đội ngũ, chủ trương, chính sách đối với giáo dục, đào tạo. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến những tư tưởng lớn của Người về giáo dục – đào tạo, những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
1. Xây dựng nền giáo dục độc lập, tiến bộ, toàn diện theo hướng dân tộc, hiện đại, nhân văn, lấy mục tiêu phục vụ Tổ quốc, nhân dân làm nền tảng
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, có truyền thống yêu nước, trước khi ra nước ngoài tìm đường cứu nước (năm 1911), thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã truyền bá tư tưởng yêu nước, thương nòi cho học trò Trường Dục Thanh (Phan Thiết).
Những năm hoạt động cách mạng tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tố cáo tội ác của thực dân Pháp trong việc thi hành “chính sách ngu dân” để dễ bề cai trị đối với nhân dân ta. Tại Đại hội Tua của Pháp (tháng 12-1920), trong bản tham luận đầu tiên của mình, Nguyễn Ái Quốc lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Đông Dương là “ Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người…Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu”. [1]
Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), Người viết: “Nhân dân Ðông Dương khẩn khoản đòi mở trường học vì trường học thiếu một cách nghiêm trọng… “Làm cho dân ngu để dễ trị”, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất” [2] .
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ( tháng 2-1930), trong Chánh cương vắn tắt của Ðảng, Nguyễn Ái Quốc chủ trương phổ thông giáo dục theo công nông hóa ( sau này, nói là phổ cập giáo dục cho nhân dân). Trong thư gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Anh “to make education for all” nghĩa là tiến hành giáo dục cho mọi người. Ðặc biệt, “Chương trình Việt Minh” (1941), Người chủ trương: “Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ. Gây dựng nền quốc dân giáo dục. Cưỡng bức giáo dục từ bực sơ học. Mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục dân tộc mình. Lập các trường chuyên môn huấn luyện chính trị, quân sự, kỹ thuật để đào tạo các lớp nhân tài… Khuyến khích và giúp đỡ nền giáo dục quốc dân làm cho nòi giống ngày thêm mạnh.” [3]
Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập , khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trước những khó khăn của đất nước, Người đã nghĩ ngay đến việc chăm lo giáo dục. Trong “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, vấn đề thứ hai – là phải chống nạn dốt; vì “nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ” [4] , Bác nhấn mạnh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” [5] .
Do đó, chỉ sau một tuần lễ đọc Tuyên ngôn độc lập , ngày 8-9-1945, Người đã ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, để thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân. Người chủ trương xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục hướng vào các giá trị dân tộc, hiện đại, nhân văn, phục vụ Tổ quốc, nhân dân.
Trong “Thư gửi cho học sinh” nhân ngày khai trường, ngày 5-9-1945, Người viết:” Một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” [6]
Theo đó, ngay trong những năm 1945-1946, năm học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, học sinh học tất cả các môn học đều bằng tiếng quốc ngữ. Cùng với quốc ngữ, quốc văn, quốc sử và địa lý nước nhà ngày càng được quan tâm hơn.
Trong trường học, Người chú trọng dạy cho học sinh lòng yêu nước: “ Cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ.” [7] Hơn ai hết, Người hiểu rõ chỉ có lòng yêu nước, thương nòi mới thúc đẩy mọi người học tập, phấn đấu, mới hết lòng phụng sự nhân dân. Nói chuyện với học sinh các Trương Trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương ở Hà Nội, Người nói: “ Học bây giờ với học dưới chế độ thực dân phong kiến khác hẳn nhau. Bây giờ phải học để: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức…Học để phụng sự ai ? Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân , làm cho dân giàu nước mạnh”. [8]
Tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được Hồ Chí Minh quán triệt thực hiện trong ngành giáo dục và toàn xã hội. Người phát động phong trào chống nạn mù chữ, thất học , làm cho mọi người dân đều biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, nâng cao dân trí để có kiến thức mới phục vụ cho công cuộc kiến thiết nước nhà. Bên cạnh đó, Người yêu cầu ngành giáo dục phải sửa đổi triệt để nội dung chương trình, sách giáo khoa cho phù hợp với sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, khôi phục kinh tế, quốc phòng.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục- đào tạo là phải chú trọng giáo dục toàn diện . Người yêu cầu phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất; đồng thời phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như thái độ thờ ơ với xã hội, xa vời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, chạy theo lối nhồi sọ. Nội dung giáo dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người mới, phải coi trọng cả tài lẫn đức, coi trọng đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. [9] Muốn đạt mục tiêu giáo dục toàn diện thì phải dựa vào nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt để phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn.
2. Giáo dục- đào tạo phải hết sức coi trọng vai trò của người thầy và phải hình thành được cho học sinh thấy vị trí, vai trò của mình để nâng cao nhu cầu, khả năng tự học, phát huy được năng lực sẵn có
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của thầy giáo, cô giáo đối với xã hội . Người nhấn mạnh: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản?. Người thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo – là người vẻ vang nhất…, những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh… Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng CNXH được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang” [10] . Ðể làm tròn sứ mệnh vẻ vang ấy, người thầy giáo phải có phẩm chất tốt. Bác nhắc nhở: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức… Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con” [11] .
Hồ Chí Minh là Người đầu tiên vinh danh nghề giáo, đặt người thầy vào vị trí được tôn trọng, cao quý nhất của xã hội. Muốn đạt được sứ mệnh vẻ vang ấy, người giáo viên phải nhận thức được mình không phải là gõ đầu trẻ kiếm cơm mà là người phụ trách đào tạo những công dân tiến bộ. Người nhấn mạnh người giáo viên là: “ cán bộ chuyên môn, có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng. Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn”. [12]
Do đó, người giáo viên phải tăng cường trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng rèn luyện chuyên môn, phải là tấm gương sáng để học sinh noi theo, phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm, phải thương yêu chắm sóc học sinh như con em ruột thịt của mình, phải thật sự yêu nghề, yêu trường, không ngừng học hỏi để tiến bộ mãi. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, mỗi thầy giáo, cô giáo là những chiến sỹ trên mặt trận đó.
Đối với người làm công tác quản lý giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ họ phải nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Trong công tác quản lý giáo dục, Người chỉ rõ phải đi sâu vào việc điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm; chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; kết hợp chặt chẽ chủ trương chính sách của Trung ương với tình hình thực tế và kinh nghiệm qúy báu và phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương.
Đối với học sinh, trong thư gửi học sinh ngày khai trường tháng 9-1945, bên cạnh việc đề cao vai trò của học sinh, Bác khích lệ học sinh chăm chỉ học tập để làm rạng rỡ cho nước nhà: “Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [13] .
3. Giáo dục – đào tạo phải chú ý nội dung, phương pháp và phong cách dạy học, gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành
Mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là phải đào tạo ra những con người vừa hồng, vừa chuyên, vừa có đức, vừa có tài: “ Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức…”. [14]
Ngày 21-10-1964, trong bài nói chuyện tại Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh những nội dung cốt yếu trong giảng dạy và học tập: “ Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng . Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân”. [15]
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục đó, Người cho rằng nhà trường và thầy giáo phải dạy cho học sinh các nội dung giáo dục như thể dục, trí dục, mỹ dục và đức dục:
– Về thể dục, để làm cho thân thể khỏe mạnh, đồng thời cần phải giữ gìn vệ sinh riêng và vệ sinh chung.
– Về trí dục: ôn lại những điều đã học, học thêm những trí thức mới.
– Về mỹ dục: để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp.
– Về đức dục: là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công.
Những nội dung giáo dục trên phải được đưa vào chương trình của tất cả các lớp, các cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận:
– Đối với đại học cần phải kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học lý luận và khoa học tiên tiến trên thế giới, kết hợp với thực tiễn nước nhà.
– Đối với trung học cần đảm bảo cho học sinh những kiến thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đề xây dựng đất nước, bỏ những phần nào không cần cho đời sống thực tế.
– Đối với tiểu học cần giáo dục cho các cháu yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công.
Bên cạnh những nội dung giáo dục đó, Người cho rằng ngành giáo dục cần phải thực hiện tốt phương châm, phương pháp giáo dục-đào tạo. Trong phương châm, phương pháp giáo dục, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải phải thực hiện 3 nội dung:
Một là, kết hợp học với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn . Triết lý giáo dục này được Hồ Chí Minh khẳng định là học đi với lao động, lý luận đi với thực hành, cần cù đi với tiết kiệm. Khi đến nói chuyện với giáo viên, học sinh Trường Đại học sư phạm Hà Nội (ngày 21-10-1964), Người nói: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”. [16] Người phê phán lối học gạo, học vẹt , học mà không hành, chỉ biết lý luận suông mà không thực hành là trí thức một nửa . Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở lý luận phải liên hệ với thực tế, học đi đôi với hành. Lý luận là những điều được tổng kết từ thực tiễn nhưng lý luận chỉ là lý luận suông nếu nó không được thâm nhập trở lại vào thực tiễn.
Ngày 6-5-1950, nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Học lý luận không phải để nói mép, nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Học là để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng.” [17] . Tầm quan trọng của lý luận và sự cần thiết phải học tập lý luận được Hồ Chí Minh khẳng định nhiều lần trong các bài nói, bài viết. Người nghiêm khắc phê phán bệnh coi thường lý luận, tình trạng kém và thiếu lý luận, lý luận suông chỉ học thuộc lòng để đem lòe thiên hạ . Người lưu ý, lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải theo lý luận : “ Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế. ” [18]
Hai là, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. Xuất phát từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí mInh cho rằng giáo dục-đào tạo là sự nghiệp của toàn dân, do đó, Người đòi hỏi phải đặc biệt coi trọng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Chỉ khi nhà trường, gia đình và xã hội cùng nhau phụ trách việc giáo dục-đào tạo thì kết quả của sự nghiệp giáo dục mới hoàn thành: “Giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”. [19]
Ba là, học tập là công việc suốt đời của mỗi người. Với tinh thần học, học nữa, học mãi, Hồ Chí Minh nhấn mạnh học tập là một việc phải tiếp tục suốt đời: “học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời…Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi, thế giới ngày nay đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ. Cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến kịp nhân dân”. [20]
Bác Hồ là một tấm gương học tập suốt đời bền bỉ và khiêm tốn. Có người thấy tuổi mình đã cao, rồi đâm ra tiêu cực, không thiết học hoặc không tin ở sức học của mình, Người đã ân cần chỉ bảo: Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học… Bác nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già, nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng. Trong suốt từ năm 1954-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi thăm các cơ sở ở Trung ương và địa phương khoảng 700 lần và ở bất kỳ đâu, gặp bất cứ đối tượng nào, Người cũng căn dặn phải học tập để nâng cao trình độ, biết được nhiều và phục vụ được tốt. Đối với học sinh, thanh niên, Người luôn căn dặn chỉ có không ngừng học tập thì mới tiến bộ mãi. Đối với các thầy cô giáo, Người không quên nhắc nhở phải không ngừng học tập để bồi bổ kiến thức mà dạy cho học sinh ngày một tốt hơn. Trong quan điểm của Người về giáo dục chỉ có xây dựng được một xã hội học tập thì mới thực hiện được việc học tập suốt đời và ngược lại, mỗi con người Việt Nam, công dân Việt Nam có lấy học tập là mục đích, là công việc suốt đời thì mới đóng góp được cho xã hội học tập.
Thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục-đào tạo, trong ba mươi năm đổi mới (1986-2016), dưới sự lãnh đạo của Đảng, giáo dục Việt Nam đã có nhiều thay đổi, phát triển cả về quy mô và chất lượng. Các công cuộc phổ cập giáo dục từ tiểu học cho đến bậc trung học đã được triển khai và đạt được những thành quả nhất định. Việt Nam hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ I năm 2014; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010. Tính đến tháng 6/2015, đã có 32 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên nhất là chất lượng giáo dục đỉnh cao có bước phát triển mới đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ văn hóa, khoa học kỹ thuật, lực lượng lao động có trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng đông tham gia vào phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh tế tri thức chiếm một vị trí quan trọng, Đảng lãnh đạo đổi mới toàn diện sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khẳng định giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu để sáng tạo ra hệ thống giá trị hiện đại, mới mẻ, làm nguồn lực thúc đẩy và phát triển kinh tế-xã hội. Mặc dù còn có những hạn chế, thiếu sót nhất định, nhưng giáo dục Việt Nam có những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Vấn đề cấp bách của giáo dục hiện nay là phải nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt phải coi trọng hơn nữa việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, rèn luyện nhân cách cho học sinh, sinh viên và các thầy, cô giáo, những người làm công tác quản lý giáo dục phải giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm chính như lời Hồ Chí Minh dạy ngay sau khi nước nhà độc lập.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 35, tập 1.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 107-108, tập 1.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 629-630, tập 3.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 7, tập 4.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 7, tập 4.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 34, tập 4.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 102, tập 5.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 467, tập 6.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 612, tập 11.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 612, tập 14, tr 402-403
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 612, tập 12, tr 515
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 612, tập 12, tr 516
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 34-35, tập 4.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 345, tập 10.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 400, tập 14.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 402, tập 14.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 357, tập 6.
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 94, tập 11.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 591, tập 10.
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, HN, 2011, tr 377, tập 10.
TS Dương Thị Minh Huệ
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh