Nhân văn Hồ Chí Minh qua lời dạy “Thương binh tàn nhưng không phế”

Năm 2022 chúng ta kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2022), cũng là 66 năm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thương binh tàn nhưng không phế”, với lòng thành kính, tưởng nhớ và biết ơn sâu sắc sự cống hiến, hy sinh cao cả của các anh hùng, liệt sĩ, các thương, bệnh binh và những người lính. “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”,… là truyền thống đạo lý, đạo nghĩa thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, thôi thúc chúng ta hướng về các Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Kỷ niệm Ngày Thương binh – Liệt sĩ là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn những người có công với nước, các gia đình có công với cách mạng. Kết tinh những tình cảm, những tấm lòng ấy của nhân dân ta là tình thương yêu rất đỗi chân thành, là sự chăm sóc ân cần, chu đáo, trọn nghĩa vẹn tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ, với gia đình và thân nhân của họ. Những giọt nước mắt của Người đọng trên mu bàn tay những người thương binh hỏng mắt khi Người tới thăm Trường thương binh hỏng mắt Hà Nội vào đêm giao thừa Tết Bính Thân năm 1956 đủ nói lên tất cả. Không còn ánh sáng từ đôi mắt để nhìn rõ khuôn mặt của Người, nhưng, những người thương binh hỏng mắt ấy đã nhìn và cảm nhận tình thương mênh mông của Người tự trái tim mình, lắng nghe để nuốt lấy từng lời nói hiền từ, ấm áp đầy cảm thông và chia sẻ của Người: “Thương binh tàn nhưng không phế”.

 

 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trường thương binh hỏng mắt ở Hà Nội (năm 1956). Ảnh: Tư liệu.

Bảy mươi lăm năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ đưa ta về với những kỷ niệm sống động thuở ban đầu, một thời đạn bom bão lửa. Sự hồi tưởng này cho ta thêm một lần thấu hiểu và thấu cảm về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về tư tưởng, tình cảm của Người với thương binh, liệt sĩ. Người từng nói, chỉ có đế quốc, thực dân là một lũ ác quỷ phải đánh đuổi nó đi, còn mọi người lao khổ cùng có chung cảnh đời và số phận, đều là bạn bè, đồng chí của nhau: “vàng đen trắng đỏ đều là anh em”, “Đã là máu thì máu nào cũng đỏ”, “Đã là nước mắt thì nước mắt nào cũng có vị mặn”. Nhưng trong thế giới, còn chiến tranh xâm lược, còn kẻ thống trị và muôn nỗi thống khổ của nhân dân thì phải chiến đấu để bảo vệ lương tri và phẩm giá con người: “thà hy sinh tất cả nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, những mất mát hy sinh là khó tránh khỏi. Thương binh, liệt sĩ là nỗi đau chung không của riêng ai. Dẫu biết rằng “Quyết tử để tổ quốc quyết sinh”, nhưng Hồ Chí Minh vẫn tìm mọi cách để tránh đổ máu, ít thương vong nhất, còn khi buộc phải cầm súng chiến đấu, thì thương binh, liệt sĩ sẽ nhiều thêm, Người không khỏi đau đớn như đứt từng khúc ruột.

Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, từ năm 1946 cho đến khi qua đời, Người đã bao lần viết thư thăm hỏi, an ủi và động viên, kêu gọi đồng bào cả nước giúp đỡ thương binh và các gia đình liệt sĩ. Sự săn sóc ân cần và tình thương yêu của Người là nguồn động viên to lớn đối với thương, bệnh binh và thân nhân các liệt sĩ. Đó còn là động viên tinh thần yêu nước, đoàn kết, ra sức thi đua, huy động mọi khả năng, sức lực của toàn dân làm cho kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành, phấn đấu cho độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Theo Người, đó là cách thiết thực nhất để đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ. Những ngày đầu xây dựng chính thể Cộng hòa dân chủ muôn vàn khó khăn, thù trong giặc ngoài, vận nước ngàn cân treo sợi tóc. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Người ra lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước đồng lòng chống giặc để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Lời kêu gọi của Người như chuyển đi một thông điệp lịch sử, quyết giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và nhân dân, thà hy sinh tất cả quyết không chịu làm nô lệ. Ngày 07/11/1946, Người thông báo một quyết định quan trọng thấm đẫm tình thương yêu: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi”(1).

Đặc biệt, bức thư đầy xúc động Người viết tháng 01/1947 gửi Bác sĩ Vũ Đình Tụng, một nhân sĩ, trí thức công giáo, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội, chia buồn về việc người con trai của Bộ trưởng đã hy sinh: “Tôi được báo cáo rằng: con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột,… Ngài đã đem món của quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây chắc ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng. Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn ngài, và gửi ngài lời chào thân ái và quyết thắng”(2). Bức thư này là một điển hình cho tình cảm thân thiết, máu thịt của Người đối với thương binh, liệt sĩ và gia đình họ. Đau đớn mà không ủy mị, tôn vinh sự hy sinh cao quý vì Tổ quốc của các liệt sĩ; đồng thời, nêu cao lòng tin và đức tin vào sự nghiệp kháng chiến, nói rõ đồng bào và Tổ quốc sẽ mãi khắc sâu công lao của các liệt sĩ và không bao giờ quên ơn họ.

Ngày 17/7/1947, Người có thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc” nhằm vận động lấy ngày 27/7 hằng năm trở thành Ngày Thương binh – Liệt sĩ. Người viết : “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(3). Người đề nghị và tin tưởng “Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sĩ bị thương. Ngày 27/7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh,… Luôn luôn tin vào lòng nhường cơm, sẻ áo của đồng bào ta, tôi chắc rằng “Ngày thương binh” sẽ có kết quả mỹ mãn. Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ.00)”(4).

Tháng 7/1948, trong Thư gửi anh em thương và bệnh binh, Người động viên, an ủi và căn dặn anh em, nên một mặt nuôi lại sức khỏe, một mặt cố gắng học tập. Khi đã khôi phục sức khỏe, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công tác, tăng gia sản xuất để giúp ích cho Tổ quốc cũng như các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận.

Tháng 09/1951, Người viết Thư gửi anh em thương, bệnh binh trại dệt chiếu (Tuyên Quang)(5) cám ơn đã gửi biếu mình bốn chiếc chiếu và mong anh em mạnh khỏe, cố gắng, tiến bộ mãi. Trong thư Người ân cần hỏi thăm anh em thương, bệnh binh mất bao nhiêu thời gian, công sức để dệt được một chiếc chiếu và nghề dệt chiếu có đủ ăn đủ mặc không. Và Người gửi biếu lại anh em thương, bệnh binh bộ áo mà chị em phụ nữ biếu mình, để làm giải thưởng thi đua. ­­­­­­­­Với bức thư này, đã minh chứng lời Người “Thương binh tàn mà không phế”. Đặc biệt, ngày 05/06/1952, Người còn viết trong loạt bài tuyên dương công trạng các anh hùng, chiến sĩ thi đua, có bài viết cảm động về người thương binh trở thành anh hùng lao động số một, Ngô Gia Khảm – người đúc quả lựu đạn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam – bị thương ba lần vì cứu nhà máy, lần thứ ba hỏng cả mắt, tay, mũi, miệng, què cả hai tay vẫn không nản chí, đêm ngày cố gắng tiến bộ, không sợ khổ, vượt mọi khó khăn, kiên quyết vượt mức nhiệm vụ. Một lần nữa minh chứng cho câu nói của Người “Thương binh tàn mà không phế”.

Ngày 27/7/1959, trong thư gửi anh em thương binh và gia đình liệt sĩ, Người chúc các gia đình liệt sĩ trở thành gia đình cách mạng gương mẫu. Đó là sự tôn vinh và tình cảm cao quý của Người. Người còn khen ngợi những gương thương binh điển hình: đồng chí Lê Danh ở tập đoàn Sao Mai (Hải Dương), Lưu Văn Bổng ở tập đoàn Quang Vinh (Quảng Bình) được thưởng Huân chương và những thương binh cụt tay, chân vẫn có thành tích sản xuất, được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch xã, chủ nhiệm hợp tác xã ở Thái Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa, v.v. Đủ thấy sự quan tâm tỉ mỉ, sâu sắc và sự tin cậy, nâng niu giá trị con người mà Người dành cho những “Thương binh tàn nhưng không phế”.

Người cũng ân cần nhắc nhở anh em thương binh về sống với dân không nên có những đòi hỏi quá đáng, không được tỏ ra công thần vì có thành tích chiến đấu. Phải luôn gần dân, tôn trọng nhân dân, khiêm tốn học hỏi, cố gắng tùy theo sức của mình mà tham gia công tác sản xuất, công tác xã hội ở địa phương, luôn phấn đấu giữ vững truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Những anh em an dưỡng, điều dưỡng ở các trại vì thương tật nặng hãy yên tâm điều trị, không được bi quan chán nản. Người cũng nhiều lần gửi thư cho Bác sĩ, Bộ trưởng Vũ Đình Tụng vào Ngày Thương binh – Liệt sĩ hằng năm, đề nghị chuyển một tháng lương của mình, cùng áo và khăn tay mà đồng bào gửi biếu để làm quà cho thương binh. Người còn gợi ý về việc động viên đồng bào đón thương binh về xã để nuôi dưỡng, trích một phần đất công hoặc mượn đất của những điền chủ hảo tâm, hoặc vỡ đất hoang, tổ chức sản xuất, lấy lương thực, thực phẩm để đảm bảo đời sống cho thương binh. Đây là nghĩa vụ đền ơn đáp nghĩa chứ không phải “làm phúc”; thể hiện sự chu đáo, ân tình và hết sức tỉ mỉ, cụ thể trong tư duy lãnh đạo, quản lý của Người mà cũng từ đó ta thấy thấm thía tình cảm tình yêu thương của Người dành cho thương binh, liệt sĩ.

Trong những ngày ốm nặng, trên giường bệnh, anh em phục vụ đem quạt máy vào phòng, nhưng Người nói đem quạt này cho các chú thương binh trong trại điều dưỡng, nơi đó cần hơn, ở đây mình có gió mát của cây vườn là được rồi. Từ những điều bình dị ấy ta càng cảm nhận sâu thêm tầm vóc vĩ đại và hơn tất cả là tình thương yêu của Người dành cho mỗi chúng ta, đặc biệt là đối với thương binh, liệt sĩ.

Trên đây là một vài ví dụ trong vô số việc làm thể hiện tình cảm cao quý của Người đối với thương binh, liệt sĩ. Để tư tưởng nhân văn cao đẹp của Người và chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng được thực hiện tốt hơn, cổ vũ, động viên thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Trước hết, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về giá trị, tư tưởng nhân văn cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, gia đình liệt sĩ. Cần làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức sâu sắc, tích cực làm theo tấm gương Hồ Chủ tịch, luôn thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công, là tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm cao cả của thế hệ hôm nay, vừa là yếu tố bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thể hiện sâu sắc tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ ta, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Đồng thời, tuyên truyền cho các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, như lời động viên, khích lệ, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh; góp phần ổn định và nâng cao đời sống, xứng đáng với lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thương binh tàn nhưng không phế”.

Thứ hai, Đảng, Nhà nước tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công và triển khai thực hiện hiệu quả. Trong đó, cần quan tâm hơn đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, không chỉ dịp lễ, Tết, mà trở thành việc làm thường xuyên, hằng ngày. Hiện nay, một cách thiết thực nhất mà cũng là quan trọng nhất để không phụ công lao cống hiến, hy sinh của các thương binh, liệt sĩ là tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, sao cho Đảng ta thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, cầm quyền, thật sự trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên thật sự là người đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của nhân dân, luôn được nhân dân tin, yêu.

Thứ ba, chăm lo giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Đào tạo, bồi dưỡng thanh niên là sự chủ động chuẩn bị cho tương lai của dân tộc, như Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định, đây là một công việc vô cùng quan trọng và cần thiết. Trong đó, giáo dục truyền thống, đạo đức cho thanh niên giữ vai trò hàng đầu, nhất là làm cho thế hệ trẻ thấy được công lao to lớn của thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng với nền độc lập của dân tộc; về truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, công tác chăm sóc thương binh, gia đình chính sách và người có công của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Chúng ta phải nghiêm túc thấy rằng, những hạn chế, lệch lạc trong lối sống của thanh niên hiện nay có một phần trách nhiệm rất lớn từ gia đình đến nhà trường và xã hội, chưa làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện thanh niên. Do đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể phải tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thường xuyên làm tốt việc giáo dục, rèn luyện cho thanh niên; làm cho thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động, trở thành những công dân tốt của đất nước. Đồng thời, làm cho họ nhận thức sâu sắc, tích cực học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hưởng ứng, thực hiện tốt các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”,… chăm sóc, giúp đỡ thương, bệnh binh nặng, bố mẹ liệt sĩ già yếu, cô đơn, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, vừa là đạo lý, vừa là bổn phận, trách nhiệm, việc làm thiết thực kỷ niệm Ngày Thương binh – Liệt sĩ của mỗi người Việt Nam chúng ta. 

_______________

1 – Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 486.

2 – Sđd, Tập 5, tr. 49.

3 – Sđd, tr. 204.

4 – Sđd, tr. 204.

5 – Sđd, Tập 7, tr. 200.